Bất động sản thu hút nhà đầu tư

05:57 | 02/01/2022

1,105 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Mặc dù trải qua 2 năm dịch Covid-19 diễn biến khôn lường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, nhưng giá bất động sản (BĐS) nhiều phân khúc trên thị trường cuối năm 2021 vẫn tiếp tục tăng, cho thấy BĐS vẫn là kênh đầu tư an toàn, thu hút nhiều nhà đầu tư.
Bất động sản thu hút nhà đầu tư

Theo bà Dương Thùy Dung, Giám đốc cấp cao Công ty Đầu tư và dịch vụ BĐS thương mại Mỹ tại Việt Nam, thị trường nhà ở cuối năm 2021 chứng kiến nguồn cung giảm do tác động của các biện pháp giãn cách xã hội, nguồn cung mới chỉ ghi nhận sản phẩm thuộc phân khúc cao cấp, căn hộ bình dân dần biến mất khỏi thị trường... Nguồn cung hạn chế khiến tỷ lệ hấp thụ của thị trường nhà ở đạt mức cao, đặc biệt là tại TP Hồ Chí Minh.

Còn tại Hà Nội, tỷ lệ bán sản phẩm của các dự án mới ra mắt cuối năm 2021 đang tiếp tục đà tăng, có thể kéo dài đến quý I/2022, giá dự kiến tiếp tục tăng do giá đất tăng, chi phí xây dựng leo thang, cầu ổn định và nguồn cung tạm thời còn hạn chế.

Nhìn chung, giá bán căn hộ sơ cấp tại Hà Nội tăng 16%, giá bán căn hộ sơ cấp tại TP Hồ Chí Minh tăng 17%.

Trên thị trường nhà phố, biệt thự tại Hà Nội, nguồn cung mới cuối năm 2021 chỉ có khoảng 440 căn (cơ cấu biệt thự 1%, nhà liền kề 58%, nhà phố thương mại 41%). Nguồn cung mới phân khúc này tại TP Hồ Chí Minh chỉ khoảng chục căn, 100% là các căn liền kề.

Nhu cầu nhà phố, biệt thự vẫn cao khiến giá tăng mạnh ở các đô thị lớn. Tại Hà Nội, giá bán biệt thự đã tăng 13%, giá nhà phố tăng 4%, giá nhà phố thương mại tăng 3%; trong khi ở TP Hồ Chí Minh, giá biệt thự tăng 3%, giá nhà phố tăng 17%, giá nhà phố thương mại tăng 6%.

Riêng giá bán condotel Phú Quốc hiện tới gần 4.000 USD/m2. Thị trường BĐS nghỉ dưỡng là phân khúc chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch Covid-19 trong 2 năm qua, nhưng thị trường vẫn tiếp nhận nhiều thông tin tích cực về phân khúc này. Đáng chú ý, tỉnh Khánh Hòa dẫn đầu cả nước về nguồn cung condotel, với gần 14.000 căn tung ra thị trường. Từ đầu năm đến nay, giá bán sơ cấp condotel ở Khánh Hòa, Đà Nẵng gần 2.500USD/m2, Bà Rịa - Vũng Tàu gần 2.000 USD/m2... Về nguồn cung biệt thự nghỉ dưỡng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận và Phú Quốc là những thị trường dẫn đầu về số lượng biệt thự nghỉ dưỡng hiện nay. Giá bán biệt thự nghỉ dưỡng tăng ngay cả trong thời kỳ bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, đặc biệt tại các thị trường cấp 2 như Phú Yên và Bà Rịa - Vũng Tàu...

Bất động sản thu hút nhà đầu tư
Các chính sách bán hàng linh hoạt được các doanh nghiệp BĐS tung ra nhằm thu hút người mua

Tại hội nghị toàn cảnh thị trường BĐS năm 2021 mới đây, ông Cấn Văn Lực - chuyên gia kinh tế trưởng BIDV - cho biết, có rất nhiều yếu tố hứa hẹn sự phục hồi nhanh và tăng trưởng của thị trường BĐS trong năm 2022. Nền kinh tế có thể phục hồi nhanh, nếu Việt Nam thực hiện tốt chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 và năm 2023. Thêm vào đó, đầu tư cơ sở hạ tầng được coi là 1 trong 3 đột phá chiến lược, cùng với hành lang pháp lý về BĐS đã và đang được cải thiện (Nghị định

148/CP/2020 về đất đai, Nghị định

69/CP/2021 về cải tạo chung cư cũ, Luật Đất đai dự kiến sửa đổi năm 2022), chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, thị hiếu khách hàng thay đổi sau đại dịch... là những yếu tố tích cực thúc đẩy thị trường BĐS khởi sắc trong tương lai gần.

Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư vào BĐS vẫn dồi dào. Quý IV/2021, vốn tín dụng BĐS tăng khoảng 6% so với cùng kỳ năm trước; tổng dư nợ tín dụng BĐS khoảng 2 triệu tỉ đồng, chiếm khoảng 19% tổng dư nợ nền kinh tế; trong đó, theo Ngân hàng Nhà nước và Bộ Xây dựng, cho vay mua nhà ở chiếm 64%, còn lại là tín dụng kinh doanh BĐS chiếm khoảng 36%.

Năm 2021, số doanh nghiệp kinh doanh BĐS thành lập mới là 6.700 doanh nghiệp, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước, vốn đăng ký 423.000 tỉ đồng, tạo ra 43.400 việc làm. Thị trường ghi nhận 1.250 doanh nghiệp hoạt động trở lại và 1.580 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động.

Về nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), đến tháng 12-2021, tổng vốn đăng ký mới vào BĐS đạt gần 2 tỉ USD (chiếm khoảng 11% tổng vốn FDI), đứng thứ 3 trong các lĩnh vực thu hút FDI. Riêng vốn góp, mua cổ phần đạt 983 triệu USD (chiếm 22,4%).

Về trái phiếu doanh nghiệp, tính đến tháng 12-2021, toàn thị trường phát hành 436 nghìn tỉ đồng trái phiếu, trong đó, doanh nghiệp BĐS xếp thứ 1 (chiếm 45%), thứ 2 là nhóm ngân hàng (chiếm 30%).

Những yếu tố đó góp phần khiến giá BĐS hầu như không giảm, riêng BĐS nhà ở vẫn tăng 5-9% tùy địa phương. Giá thuê BĐS khu công nghiệp cũng tăng 3-18% tùy địa phương.

Thực tế, sự thay đổi trong cách thức tìm kiếm và “khẩu vị” người mua nhà đã làm thay đổi xu hướng phát triển sản phẩm BĐS và hình thức kinh doanh của nhiều chủ đầu tư. Bên cạnh vị trí và chất lượng xây dựng, nhiều doanh nghiệp dần mạnh tay hơn trong đầu tư phát triển các yếu tố tiện ích, môi trường và không gian sống để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Các sản phẩm BĐS tập trung hướng tới giá trị thực.

Nguồn vốn đầu tư vào BĐS vẫn dồi dào. Quý IV/2021, vốn tín dụng BĐS tăng khoảng 6% so với cùng kỳ năm trước; tổng dư nợ tín dụng BĐS khoảng 2 triệu tỉ đồng, chiếm khoảng 19% tổng dư nợ nền kinh tế; trong đó, theo Ngân hàng Nhà nước và Bộ Xây dựng, cho vay mua nhà ở chiếm 64%, tín dụng kinh doanh BĐS chiếm 36%.

Vân Quỳnh

Thị trường bất động sản “nóng” trở lại, nhiều nhóm ngành hưởng lợiThị trường bất động sản “nóng” trở lại, nhiều nhóm ngành hưởng lợi
Mô hình đô thị nào đang dắt dắt xu hướng thị trường bất động sản Việt Nam?Mô hình đô thị nào đang dắt dắt xu hướng thị trường bất động sản Việt Nam?
"Cây đinh ba" áp lực và nguy cơ vào "vết xe đổ" đè nặng kinh tế Trung Quốc
Liệu có xảy ra sốt đất trong năm 2022?Liệu có xảy ra sốt đất trong năm 2022?
Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong đấu giá quyền sử dụng đấtXử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong đấu giá quyền sử dụng đất

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,000 ▲500K 122,000 ▲500K
AVPL/SJC HCM 120,000 ▲500K 122,000 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 120,000 ▲500K 122,000 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,170 ▲50K 11,450 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 11,160 ▲50K 11,440 ▲50K
Cập nhật: 10/05/2025 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 116.600
TPHCM - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Hà Nội - PNJ 114.000 116.600
Hà Nội - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 114.000 116.600
Đà Nẵng - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Miền Tây - PNJ 114.000 116.600
Miền Tây - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 116.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 115.670
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 115.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 87.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 68.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 48.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 106.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 71.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 75.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 79.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 43.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 38.600
Cập nhật: 10/05/2025 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,290 11,740
Trang sức 99.9 11,280 11,730
NL 99.99 11,100
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,500 11,800
Miếng SJC Thái Bình 12,000 ▲50K 12,200 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 12,000 ▲50K 12,200 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 12,000 ▲50K 12,200 ▲50K
Cập nhật: 10/05/2025 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16118 16385 16969
CAD 18096 18371 18995
CHF 30572 30948 31621
CNY 0 3358 3600
EUR 28572 28839 29883
GBP 33740 34129 35080
HKD 0 3207 3411
JPY 171 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15024 15625
SGD 19454 19734 20278
THB 703 766 820
USD (1,2) 25699 0 0
USD (5,10,20) 25738 0 0
USD (50,100) 25766 25800 26155
Cập nhật: 10/05/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 33,951 34,043 34,943
HKD 3,282 3,292 3,391
CHF 30,810 30,906 31,767
JPY 175.11 175.43 183.25
THB 749.74 759 812.07
AUD 16,397 16,456 16,901
CAD 18,405 18,464 18,964
SGD 19,652 19,713 20,338
SEK - 2,632 2,724
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,849 3,981
NOK - 2,452 2,538
CNY - 3,548 3,644
RUB - - -
NZD 14,981 15,120 15,554
KRW 17.19 17.93 19.27
EUR 28,755 28,778 30,006
TWD 777.95 - 941.86
MYR 5,633.75 - 6,359.66
SAR - 6,810.25 7,168.24
KWD - 82,426 87,642
XAU - - -
Cập nhật: 10/05/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,557 28,672 29,776
GBP 33,746 33,882 34,851
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 30,669 30,792 31,690
JPY 173.90 174.60 181.74
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,615 19,694 20,232
THB 763 766 800
CAD 18,311 18,385 18,897
NZD 15,042 15,549
KRW 17.63 19.42
Cập nhật: 10/05/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16257 16357 16925
CAD 18304 18404 18957
CHF 30785 30815 31712
CNY 0 3549.6 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28845 28945 29720
GBP 33935 33985 35098
HKD 0 3355 0
JPY 175.09 176.09 182.64
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15080 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19610 19740 20471
THB 0 730.9 0
TWD 0 845 0
XAU 12000000 12000000 12150000
XBJ 12000000 12000000 12150000
Cập nhật: 10/05/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,170
USD20 25,780 25,830 26,170
USD1 25,780 25,830 26,170
AUD 16,311 16,461 17,531
EUR 28,899 29,049 30,224
CAD 18,245 18,345 19,662
SGD 19,685 19,835 20,311
JPY 175.65 177.15 181.84
GBP 34,012 34,162 34,952
XAU 11,649,000 0 12,051,000
CNY 0 3,432 0
THB 0 766 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 10/05/2025 19:00