LOẠT BÀI “KINH TẾ XANH - TẠO ĐỘNG LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG”

Bài 3: Khu công nghiệp sinh thái - Xu hướng tất yếu trong phát triển bền vững

13:00 | 23/11/2023

135 lượt xem
|
KCN sinh thái đóng góp đáng kể trong ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển công nghiệp xanh, đảm bảo an ninh năng lượng, thể hiện quyết tâm chính trị của Chính phủ về cam kết phát triển bền vững.
Bài 3: Khu công nghiệp sinh thái - Xu hướng tất yếu trong phát triển bền vững
Khu công nghiệp sinh thái đang trở thành tiêu chí lựa chọn của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài với mục tiêu phát triển bền vững, lợi ích kinh tế song hành trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. (Ảnh: Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền/Vietnam+)

Hơn 30 năm hình thành và phát triển, các khu kinh tế, khu công nghiệp trở thành nhân tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước đồng thời gia tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần mở rộng thị trường quốc tế, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước và tạo việc làm cho người lao động.

Cùng với đó, công tác bảo vệ môi trường tại các khu kinh tế, khu công nghiệp được xem là mục tiêu quan trọng để thực hiện phát triển bền vững, thúc đẩy bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân.

Đã đến lúc chấm dứt xả thải gây ô nhiễm

Theo số liệu báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối năm 2022, Việt Nam có 407 khu công nghiệp, 18 khu kinh tế ven biển, 26 khu kinh tế cửa khẩu tại 61/63 tỉnh, thành phố, thu hút trên 21 nghìn dự án đầu tư trong và ngoài nước với tổng vốn đăng ký khoảng 340 tỷ USD, đóng góp gần 12% tổng thu ngân sách Nhà nước.

Tuy nhiên, Báo cáo Công tác bảo vệ môi trường của Chính phủ cũng chỉ ra bên cạnh những việc làm được, số lượng dự án đang vận hành tại các khu kinh tế, khu công nghiệp thuộc nhóm ngành nghề có nguy cơ ô nhiễm môi trường (như luyện kim, khai thác khoáng sản, phá dỡ tàu biển, sản xuất giấy, bột giấy, dệt nhuộm, thuộc da, lọc hóa dầu, nhiệt điện, thép, hóa chất, phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật…) còn nhiều và chiếm tỷ lệ lớn trong việc phát sinh các loại nước thải, chất thải nguy hại. Trong đó, số khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung còn khoảng 10%; chưa được kiểm tra, xác nhận việc hoàn thành công trình bảo vệ môi trường chiếm 20%. Đặc biệt, khu công nghiệp chưa có công trình phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường theo quy định lên tới 75%.

Cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế truyền thống sang Kinh tế Xanh, Việt Nam đã và đang nỗ lực tạo dựng “đường băng Xanh” để hướng ra biển lớn, trở thành quốc gia giàu mạnh về biển.

Hiện chất lượng nguồn nước tại các lưu vực sông nơi tiếp nhận nước thải nói chung và nước thải công nghiệp từ các khu công nghiệp, khu kinh tế nói riêng (như lưu vực sông Nhuệ-Đáy, lưu vực sông Đồng Nai, lưu vực sông Mê Công, lưu vực sông Cầu…) đang có dấu hiệu ô nhiễm với nhiều thông số vượt quy chuẩn cho phép. Cá biệt, một số khu vực có thời điểm chỉ số chất lượng nước (WQI) đo được ở mức xấu, thậm chí là kém (như sông Nhuệ) và ô nhiễm (như sông Sài Gòn). Mặt khác, vấn đề nổi cộm nhất đối với các khu công nghiệp là ô nhiễm bụi, đặc biệt là tại các khu công nghiệp khu vực phía Bắc có công nghệ cũ, lạc hậu. Thêm vào đó, tình trạng ô nhiễm tiếng ồn và mùi còn xảy ra cục bộ tại một số khu công nghiệp (nơi hoạt động của các nhà máy xử lý nước thải, nhà máy chế biến tinh bột, cao su, giày…). Đối với môi trường đất, các kết quả quan trắc chất lượng đất nông nghiệp xung quanh các khu công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Định, Đà Nẵng, Bình Dương… có hàm lượng kim loại nặng ngày càng gia tăng như đồng, kẽm, cadimi, arsenic, thủy ngân, crom…

Bài 3: Khu công nghiệp sinh thái - Xu hướng tất yếu trong phát triển bền vững
Xanh hóa khu công nghiệp là xu hướng tất yếu. (Ảnh: Vietnam+)

Về hiệu quả, các khu công nghiệp cũng chưa khai thác hết năng lực và phát huy hết vai trò của mình. Tỷ lệ lấp đầy của các khu công nghiệp chỉ đạt 57%, với tỷ suất thu hút đầu tư trung bình thấp, khoảng 4,6 triệu USD/ha đất công nghiệp đã cho thuê. Nguyên nhân là do công tác quy hoạch chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển, mang tính cục bộ, thiếu gắn kết tổng thể hài hòa với lợi ích quốc gia. Cơ sở hạ tầng xã hội, nguồn nhân lực, sử dụng đất và đô thị, hạ tầng giao thông không đáp ứng được tính liên kết vùng. Các khu kinh tế, khu công nghiệp cũng chưa tác động nhiều đến sản xuất công nghiệp của địa phương do mô hình hợp tác sản xuất đơn lẻ. Vì vậy, các doanh nghiệp rất khó tham gia vào chuỗi giá trị của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trên thực tế, hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường nhiều nơi còn không đồng bộ.

Để tăng tính bền vững của sản xuất công nghiệp, giảm ô nhiễm môi trường, đảm bảo lợi ích kinh tế, xã hội của các khu công nghiệp, mô hình EIP (đề xuất cải tiến Ethereum) đã ra đời. Đây là điều kiện tiên quyết để xây dựng mô hình các khu công nghiệp sinh thái, bao gồm mức độ phối hợp và hợp tác giữa các ngành hay còn gọi là “cộng sinh công nghiệp,” trong đó năng lượng và vật liệu do một ngành sản xuất được tiêu thụ làm đầu vào cho ngành hay doanh nghiệp khác.

KCN sinh thái – mô hình của “tương lai xanh”

Mô hình khu công nghiệp sinh thái đã được Chính phủ nêu rõ tại Nghị định số 35/2022/NĐ-CP 28/5/2022 quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, các quy định liên quan đến kinh tế tuần hoàn tại pháp luật về bảo vệ môi trường, được lồng ghép vào Chiến lược thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2030, Chiến lược Tăng trưởng Xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, góp phần hiện thực hóa cam kết đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050 tại Hội nghị COP 26, thực hiện Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam và các mục tiêu phát triển bền vững (SDG).

Theo ông Lê Thành Quân, Vụ trưởng Vụ Quản lý các Khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phát triển các KCN sinh thái là giải pháp tối ưu, nhằm thực hiện kinh tế tuần hoàn thay thế kinh tế tuyến tính truyền thống. Hơn nữa, KCN sinh thái đang trở thành tiêu chí lựa chọn của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với mục tiêu phát triển bền vững, lợi ích kinh tế song hành trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. KCN sinh thái sẽ đóng góp đáng kể vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu, huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân cho giải pháp công nghiệp xanh, đảm bảo an ninh năng lượng, thể hiện quyết tâm chính trị của Chính phủ trong việc thực hiện các cam kết phát triển bền vững.

Bài 3: Khu công nghiệp sinh thái - Xu hướng tất yếu trong phát triển bền vững
Những hình thức cộng sinh công nghiệp dựa trên nguyên tắc thị trường và lợi ích dễ thấy nhất là giảm chi phí vận chuyển do lợi thế về khoảng cách địa lý. (Ảnh: Vietnam+)

Ông Lê Thành Quân cho biết từ năm 2015-2019, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) triển khai thí điểm mô hình khu công nghiệp sinh thái tại Ninh Bình, Đà Nẵng và Cần Thơ. Kết quả, có trên 72 doanh nghiệp thực hiện hơn 900 giải pháp tiết kiệm năng lượng và sản xuất sạch (RECP), tiết kiệm 76 tỷ đồng/năm và huy động được khoảng 207 tỷ đồng từ khu vực tư nhân, cắt giảm được 32 kilo tấn khí CO2/năm và bước đầu đem lại hiệu quả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Sang giai đoạn 2020-2023, 3 KCN tại TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đồng Nai đã được chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái theo khung quốc tế và là tiền đề để nhân rộng mô hình này trên cả nước.

Bên cạnh đó, báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có chỉ ra việc vây dựng mạng lưới cộng sinh công nghiệp tại các khu công nghiệp đang ở mức độ tự phát. Các doanh nghiệp tự tìm kiếm cơ hội liên kết, thực hiện các mối quan hệ chính sách công nghiệp phi chính thức, không công bố và đăng ký với các cơ quan hữu quan. Hầu hết là cộng sinh phụ phẩm trong cùng khu công nghiệp: Doanh nghiệp A bán bao bì cho Doanh nghiệp B tái chế giấy thải làm nguyên liệu sản xuất giấy, bìa cứng; hay doanh nghiệp X chế biến cá da trơn thải đầu, xương, nội tạng cá và bán toàn bộ cho Doanh nghiệp Z chế biến thức ăn chăn nuôi… Những hình thức cộng sinh công nghiệp này phát sinh dựa trên nguyên tắc thị trường và lợi ích dễ thấy nhất là giảm chi phí vận chuyển do lợi thế về khoảng cách địa lý. Tuy nhiên, do văn hóa “đóng cửa” và thiếu thông tin trong kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã không tìm được đối tác cộng sinh cho sản phẩm phụ của mình.

Ngành Giao thông Vận tải đẩy mạnh tái cơ cấu vận tải theo hướng giảm thị phần vận tải đường bộ, tăng các phương thức vận tải hàng hải, đường thủy nội địa và đường sắt thân thiện với môi trường.

Ông Phạm Hồng Điệp, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Shinec (Hải Phòng), nhấn mạnh cộng sinh công nghiệp không chỉ dừng lại ở loại cộng sinh phụ phẩm, chất thải mà còn có rất nhiều tiềm năng ở các loại cộng sinh khác, bao gồm cộng sinh tiện ích và chia sẻ cơ sở hạ tầng, cộng sinh nguồn cung và công sinh dịch vụ-công nghiệp-đô thị...

“Tiềm năng về cộng sinh công nghiệp trong các khu công nghiệp ở Việt Nam là rất lớn ở đa dạng ở các loại hình khác. Trong thời gian qua, các cấp quản lý Nhà nước ở trung ương và địa phương đã đẩy mạnh tuyên truyền kiến ​​thức và tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các liên kết cộng sinh công nghiệp, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cụ thể hóa tiềm năng của mình,” ông Điệp nói.

Gỡ rào cản để tiến tới kinh tế cộng sinh

Tuy nhiên, ông Điệp cũng chỉ ra một số rào cản, trong đó quan trọng nhất là quy định pháp luật. Hiện nay, Nghị định 82/2018/ND-CP quy định khái niệm, tiêu chí một số ưu đãi đối với khu công nghiệp sinh thái, trong khi các hướng dẫn cụ thể về tiêu chuẩn tái sử dụng chất thải, nước, phế phẩm, công nghệ mới được giao cho các bộ, ngành liên quan nhưng chưa được ban hành (như việc tái sử dụng nước thải được quy định tại Nghị định số 38/2015/ND-CP của Chính phủ về Quản lý chất thải và phế liệu).

Vì vậy, ông Điệp cho rằng việc tháo gỡ các rào cản pháp lý liên quan nêu trên là yêu cầu cấp thiết để doanh nghiệp có cơ sở pháp lý cụ thể hóa việc thực thi công sinh công nghiệp trên thực tế. Ông Điệp nhấn mạnh để hiện thực các tiềm năng cộng sinh tại các khu công nghiệp cần đảm bảo 5 yếu tố về thuận lợi pháp lý (văn bản pháp luật cho phép thực hiện), nhận thức của các bên tham gia (chủ doanh nghiệp thứ cấp), niềm tin vào đối tác (chia sẻ thông tin, sẵn sàng đàm phán, hợp tác), công nghệ khả thi, phù hợp và nguồn lực tài chính sẵn có.

Về điều này, ông Lê Thành Quân cho rằng việc đổi mới mô hình khu công nghiệp hiện tại sang hướng sinh thái, hiệu quả cao cần lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo làm trụ cột (chủ động kiến tạo, tạo môi trường cho các doanh nghiệp công nghệ, start-up được hình thành và phát triển).

Bên cạnh đó, các địa phương cần ưu tiên dành quỹ đất và nguồn lực cho các dự án R&D, nghiên cứu thử nghiệm sản phẩm mới, ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, tiết kiệm năng lượng... Mục tiêu là phát triển sản xuất, công nghiệp, dịch vụ trên nguyên tắc tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, gắn với liên kết phát triển vùng, hình thành cụm liên kết ngành.

Để làm được những điều này, ông Quân cho rằng cần nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý nhà Nước. Cụ thể là kiện toàn bộ máy quản lý cả trung ương và địa phương theo hướng tinh gọn, một đầu mối, đủ thẩm quyền, đủ năng lực để phát triển các mô hình mới, tiếp cận phương thức hiện đại.

Bài 3: Khu công nghiệp sinh thái - Xu hướng tất yếu trong phát triển bền vững
Việc đổi mới mô hình khu công nghiệp hiện tại sang hướng sinh thái, hiệu quả cao cần lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo làm trụ cột. (Ảnh: Vietnam+)

Mặt khác, hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin quốc gia về khu công nghiệp cần được xây dựng để phục vụ công tác xúc tiến, thu hút, hợp tác đầu tư và quản lý Nhà nước. Quan điểm nhất quán là phát triển kinh tế phải đi liền với phát triển hạ tầng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường. Công tác quy hoạch ngay từ đầu phải hoàn thiện hệ sinh thái công nghiệp-đô thị-dịch vụ, đảm bảo cho việc phát triển bền vững các công nghiệp.

Ngoài ra, ông Quân nhấn mạnh cần thực hiện các giải pháp về tăng cường giám sát bảo vệ môi trường, đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng khu công nghiệp và đảm bảo công tác an sinh xã hội, đời sống người lao động.

Để đạt được những mục tiêu phát triển bền vững, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã hoàn thiện các quan điểm về bảo vệ môi trường, trong đó nêu rõ tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt trên 70% và 100% các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường…

Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật Bảo vệ môi trường cho đến các Nghị định, Thông tư hướng dẫn đã và đang được hoàn thiện từ Trung ương đến địa phương.

Hạnh Nguyễn

www.vietnamplus.vn

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 149,800 ▼1200K 152,800 ▼1200K
Hà Nội - PNJ 149,800 ▼1200K 152,800 ▼1200K
Đà Nẵng - PNJ 149,800 ▼1200K 152,800 ▼1200K
Miền Tây - PNJ 149,800 ▼1200K 152,800 ▼1200K
Tây Nguyên - PNJ 149,800 ▼1200K 152,800 ▼1200K
Đông Nam Bộ - PNJ 149,800 ▼1200K 152,800 ▼1200K
Cập nhật: 14/11/2025 11:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,170 ▼80K 15,370 ▼80K
Miếng SJC Nghệ An 15,170 ▼80K 15,370 ▼80K
Miếng SJC Thái Bình 15,170 ▼80K 15,370 ▼80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 15,070 ▼80K 15,370 ▼80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 15,070 ▼80K 15,370 ▼80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 15,070 ▼80K 15,370 ▼80K
NL 99.99 14,400 ▼80K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,400 ▼80K
Trang sức 99.9 14,660 ▼80K 15,260 ▼80K
Trang sức 99.99 14,670 ▼80K 15,270 ▼80K
Cập nhật: 14/11/2025 11:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,517 ▼8K 15,372 ▼80K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,517 ▼8K 15,373 ▼80K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,492 ▼10K 1,517 ▼10K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,492 ▼10K 1,518 ▼10K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,477 ▼10K 1,507 ▼10K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 144,708 ▼990K 149,208 ▼990K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,686 ▼750K 113,186 ▼750K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 95,136 ▼680K 102,636 ▼680K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,586 ▼610K 92,086 ▼610K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 80,517 ▲79706K 88,017 ▲87131K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,498 ▼417K 62,998 ▼417K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,517 ▼8K 1,537 ▼8K
Cập nhật: 14/11/2025 11:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16703 16972 17546
CAD 18260 18536 19147
CHF 32613 32997 33646
CNY 0 3470 3830
EUR 30046 30319 31343
GBP 33851 34241 35168
HKD 0 3262 3463
JPY 163 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14677 15263
SGD 19733 20015 20539
THB 730 793 847
USD (1,2) 26089 0 0
USD (5,10,20) 26131 0 0
USD (50,100) 26159 26179 26378
Cập nhật: 14/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,160 26,160 26,378
USD(1-2-5) 25,114 - -
USD(10-20) 25,114 - -
EUR 30,257 30,281 31,427
JPY 167.43 167.73 174.71
GBP 34,251 34,344 35,147
AUD 16,986 17,047 17,488
CAD 18,484 18,543 19,066
CHF 32,923 33,025 33,710
SGD 19,891 19,953 20,570
CNY - 3,667 3,764
HKD 3,341 3,351 3,433
KRW 16.71 17.43 18.71
THB 779.71 789.34 839.32
NZD 14,641 14,777 15,122
SEK - 2,764 2,844
DKK - 4,047 4,164
NOK - 2,595 2,671
LAK - 0.93 1.29
MYR 5,980.97 - 6,711.3
TWD 766.75 - 923.1
SAR - 6,929.72 7,253.36
KWD - 83,873 88,713
Cập nhật: 14/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,145 26,148 26,378
EUR 30,049 30,170 31,304
GBP 33,993 34,130 35,098
HKD 3,320 3,333 3,441
CHF 32,615 32,746 33,661
JPY 166.32 166.99 174.05
AUD 16,867 16,935 17,473
SGD 19,893 19,973 20,515
THB 793 796 831
CAD 18,426 18,500 19,037
NZD 14,655 15,163
KRW 17.32 18.93
Cập nhật: 14/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26153 26153 26378
AUD 16874 16974 17900
CAD 18432 18532 19543
CHF 32815 32845 34432
CNY 0 3678.6 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 30204 30234 31956
GBP 34133 34183 35946
HKD 0 3390 0
JPY 167.03 167.53 178.04
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14726 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19879 20009 20737
THB 0 759.1 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 15110000 15110000 15310000
SBJ 13000000 13000000 15310000
Cập nhật: 14/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,178 26,230 26,378
USD20 26,180 26,230 26,378
USD1 26,180 26,230 26,378
AUD 16,943 17,043 18,154
EUR 30,358 30,358 31,675
CAD 18,387 18,487 19,798
SGD 19,900 19,900 20,668
JPY 167.6 169.1 173.67
GBP 34,242 34,392 35,166
XAU 15,168,000 0 15,372,000
CNY 0 3,564 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 14/11/2025 11:45