2025 - Năm bản lề để kinh tế Việt Nam vươn mình

10:26 | 11/02/2025

1,262 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Việt Nam bước vào năm 2025 với tham vọng đạt tăng trưởng GDP hơn 8%. Mục tiêu này không chỉ đảm bảo đà tăng trưởng kinh tế sau đại dịch COVID-19 mà còn là bước chuẩn bị cho giai đoạn phát triển bền vững trong thập kỷ tới. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang phục hồi, Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội lớn để hiện thực hóa mục tiêu đầy tham vọng này.
2025 - Năm bản lề để  kinh tế Việt Nam vươn mình
Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội lớn để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng GDP hơn 8%.

Một trong những yếu tố thuận lợi hỗ trợ tăng trưởng là sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu và thu hút đầu tư. Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn đầu tư nước ngoài nhờ chính sách "Trung Quốc +1" của các tập đoàn đa quốc gia. Ngoài ra, chính sách kích thích kinh tế trong nước với các biện pháp tài khóa và tiền tệ linh hoạt, cùng những cải cách mạnh mẽ về môi trường đầu tư, sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng.

Tuy nhiên, để đạt được mức tăng trưởng cao, Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức. Biến động kinh tế toàn cầu, nguy cơ suy thoái tại một số khu vực và bất ổn địa chính trị có thể ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng và hoạt động xuất khẩu. Chính sách thương mại quốc tế đang có xu hướng gia tăng bảo hộ, đặc biệt là các biện pháp áp thuế và rào cản phi thuế quan từ những thị trường lớn như Hoa Kỳ và EU. Trong nước, hiệu suất sản xuất chưa thực sự cao, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn hạn chế, đòi hỏi phải có những bước chuyển mình mạnh mẽ hơn.

PGS TS. Đinh Trọng Thịnh, Chuyên gia kinh tế, Giảng viên cao cấp Học viện Tài chính chia sẻ với PetroTimes: nếu không có yếu tố đột biến, GDP năm 2025 có thể tiệm cận 8%. Nhìn lại năm 2024, ông Thịnh cho rằng kinh tế năm 2024 đã tạo động lực lớn cho tăng trưởng.

“Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2024 đã đi vào “quỹ đạo” quý sau tăng cao hơn quý trước, tăng trưởng lần lượt là 5,98% - 7,25% - 7,43% và 7,55% để cả năm đạt 7,09%, cao hơn đáng kể mức 5,07% của năm 2023 cũng như mức trung bình 5,22% của giai đoạn 2020-2024. Mức tăng trưởng 7,09% tương đương tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 5 năm trước đại dịch COVID-19 (2015-2019)”, ông Thịnh nói.

2025 - Năm bản lề để  kinh tế Việt Nam vươn mình
PGS TS. Đinh Trọng Thịnh, Chuyên gia kinh tế, Giảng viên cao cấp Học viện Tài chính chia sẻ: nếu không có yếu tố đột biến, GDP năm 2025 có thể tiệm cận 8%.

Phân tích các số liệu thống kê năm 2024, ông Thịnh khẳng định đầu tư và tiêu dùng đã có sự phục hồi. “Nếu như trong giai đoạn 2022-2023, tốc độ tăng tích lũy tài sản thấp hơn tăng trưởng GDP, thì đến năm 2024, tăng tích lũy tài sản đã cao hơn một chút. Tốc độ tăng tiêu dùng nội địa cũng đã phục hồi trong năm 2024. Nói cách khác, doanh nghiệp và người dân lạc quan hơn khi bắt tay vào thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế, xã hội năm 2025”.

Về dư địa cho tăng trưởng, ông Thịnh cho rằng ẩn số nằm ở xuất khẩu hàng hóa. “Năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 786,29 tỷ USD, tăng 15,4%, trong đó xuất khẩu tăng 14,3% so với năm 2023. Đây là con số rất ấn tượng, nhưng lại là áp lực rất lớn cho năm 2025. Vì thế, năm nay, xuất khẩu có thể tăng trưởng chậm lại, thấp hơn so với năm trước. Lý do là tốc độ tăng trưởng năm 2024 cao hơn đáng kể so với mức trung bình của 3 năm, 5 năm và 10 năm gần nhất, do vậy sẽ có xu hướng quay trở lại mức trung bình trong trung - dài hạn”, ông Thịnh nói. Với kịch bản GDP tăng trưởng từ 8% trở lên, ông Thịnh cho rằng cần thiết phải đẩy mạnh đầu tư công, hoàn thành kế hoạch giải ngân đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, tín dụng phải tăng trưởng 17-18%. Với kịch bản này, sẽ có một lượng vốn không nhỏ đầu tư vào nền kinh tế, dẫn đến sức ép lạm phát rất lớn, nhưng khả năng, lạm phát cũng chỉ nằm trong khoảng 3,8 - 4,1%.

Còn theo Chuyên gia kinh tế - TS Nguyễn Minh Phong, kết quả kiểm soát lạm phát năm 2024 là một bước tiến quan trọng, tạo tiền đề để Việt Nam tiếp tục duy trì sự ổn định và tăng trưởng kinh tế trong năm 2025 và những năm tiếp theo. "Một trong những điểm nhấn của kinh tế Việt Nam 2024 là lạm phát được kiểm soát trong khuôn khổ mục tiêu đặt ra của Quốc hội. Thứ hai, lạm phát của chúng ta có một đặc điểm là lạm phát cơ bản thấp hơn lạm phát trung bình, cho thấy sức ảnh hưởng của các chỉ số liên quan tới giá cả thiết yếu cao và mạnh so với các nước. Ngân hàng Nhà nước đã kiểm soát khá tốt cung tiền. Thứ ba, các biện pháp chống lạm phát, chúng ta vẫn thực hiện các biện pháp đồng bộ, trong đó, chúng ta vẫn tiếp tục cố gắng duy trì được mức lãi suất dương"- chuyên gia này khẳng định.

Dự báo tình hình kinh tế năm 2025 PGS TS Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) cho rằng, với áp lực từ kinh tế quốc tế, các yếu tố như chính sách tiền tệ thắt chặt của các nước lớn, căng thẳng địa chính trị, và biến động giá cả hàng hóa có thể sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tỷ giá và lạm phát.

Vì vậy, Chính phủ, NHNN, và các bộ ngành phải chuẩn bị sẵn các kịch bản để ứng phó. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nội địa, Việt Nam cần duy trì tăng trưởng GDP ở mức 6 - 7% để tạo động lực thúc đẩy các ngành sản xuất, dịch vụ, đầu tư. Cùng đó, kiểm soát lạm phát quanh mức mục tiêu 4-5% và cần cảnh giác với áp lực tăng giá từ hàng nhập khẩu cũng là những nhiệm vụ ưu tiên trong năm.

2025 - Năm bản lề để  kinh tế Việt Nam vươn mình
Theo PGS TS Ngô Trí Long, 2025 hứa hẹn là một giai đoạn chuyển mình với cả thách thức và cơ hội.

Để hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu và doanh nghiệp bất động sản, ngoài chính sách tiền tệ, theo PGS. TS Ngô Trí Long cần cân nhắc thêm các chính sách liên quan đến chính sách tài khóa.

Cụ thể, cần giảm thuế và gia hạn thuế, áp dụng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng (VAT) hoặc gia hạn thời gian nộp thuế để giúp doanh nghiệp tăng dòng tiền. Đi kèm với đó là hỗ trợ tài chính, cung cấp các gói hỗ trợ tài chính, trợ cấp lãi suất, hoặc quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Về chính sách thương mại, vị chuyên gia cho rằng, Chính phủ và các bộ ngành cần tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế, tổ chức các hoạt động giao thương, và xây dựng thương hiệu tại thị trường quốc tế. Cùng đó tháo gỡ rào cản thương mại, đàm phán với các đối tác thương mại để giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu.

Đặc biệt trong bối cảnh bất ổn chính trị ở nhiều khu vực kéo dài những năm gần đây đặt ra yêu cầu tập trung phát triển các doanh nghiệp cũng như ngành logistics, cải thiện cơ sở hạ tầng và giảm chi phí logistics để hỗ trợ chuỗi cung ứng.

Việc xây dựng các chính sách phát triển ngành cũng là yếu tố quan trọng cần tập trung trong năm 2025 để hỗ trợ doanh nghiệp thoát khỏi những "ma trận" thủ tục hành chính đầy vướng mắc. Việc này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh biến động về lạm phát, lãi suất, và xung đột địa chính trị có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu, đầu tư nước ngoài và chuỗi cung ứng của Việt Nam. Cùng đó là các áp lực từ các rào cản thương mại, yêu cầu cao hơn về tiêu chuẩn kỹ thuật và môi trường từ các thị trường lớn như EU và Mỹ.

Ông Long cũng cho rằng, việc có các giải pháp khác liên quan ưu đãi đầu tư, ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư trong các lĩnh vực trọng điểm như bất động sản khu công nghiệp hoặc các ngành xuất khẩu chiến lược trong thu hút FDI đi kèm đơn giản hóa thủ tục đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút vốn đầu tư nước ngoài… cũng là một trong những đầu việc khó cần ưu tiên giải quyết nếu muốn đất nước tiến xa hơn trong việc hình thành các ngành kinh tế mới với hàm lượng chất xám nhiều hơn.

“Năm 2025 hứa hẹn là một giai đoạn chuyển mình với cả thách thức và cơ hội. Việt Nam cần tập trung vào việc đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện môi trường kinh doanh để tận dụng tối đa tiềm năng này” - chuyên gia này nhấn mạnh.

Có thể nói năm 2025 sẽ là thời điểm then chốt để Việt Nam bứt phá, nhưng điều đó chỉ có thể thành hiện thực nếu các chính sách kinh tế được thực thi hiệu quả, linh hoạt và có khả năng ứng phó với những biến động toàn cầu. Để đạt mục tiêu tăng trưởng, Việt Nam cần duy trì môi trường kinh doanh ổn định, khuyến khích đổi mới sáng tạo và đẩy mạnh các ngành công nghiệp mũi nhọn nhằm nâng cao giá trị gia tăng. Với chiến lược đúng đắn và quyết tâm cao, năm 2025 có thể trở thành năm bản lề, tạo nền tảng vững chắc để nền kinh tế Việt Nam vươn mình mạnh mẽ trong giai đoạn tiếp theo.

Minh Khang

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,500 120,500
AVPL/SJC HCM 118,500 120,500
AVPL/SJC ĐN 118,500 120,500
Nguyên liệu 9999 - HN 10,970 11,300
Nguyên liệu 999 - HN 10,960 11,290
Cập nhật: 23/05/2025 03:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.000 115.500
TPHCM - SJC 118.500 120.500
Hà Nội - PNJ 113.000 115.500
Hà Nội - SJC 118.500 120.500
Đà Nẵng - PNJ 113.000 115.500
Đà Nẵng - SJC 118.500 120.500
Miền Tây - PNJ 113.000 115.500
Miền Tây - SJC 118.500 120.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 120.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 120.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.800 115.300
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.690 115.190
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.980 114.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.750 114.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.130 86.630
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.100 67.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.620 48.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.220 105.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.980 70.480
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.600 75.100
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.050 78.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.890 43.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.700 38.200
Cập nhật: 23/05/2025 03:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,090 11,540
Trang sức 99.9 11,080 11,530
NL 99.99 10,750
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,750
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,300 11,600
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,300 11,600
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,300 11,600
Miếng SJC Thái Bình 11,850 12,050
Miếng SJC Nghệ An 11,850 12,050
Miếng SJC Hà Nội 11,850 12,050
Cập nhật: 23/05/2025 03:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16156 16423 16997
CAD 18180 18456 19073
CHF 30778 31155 31801
CNY 0 3546 3664
EUR 28710 28978 30005
GBP 34003 34393 35329
HKD 0 3189 3391
JPY 174 178 184
KRW 0 17 19
NZD 0 15020 15608
SGD 19569 19849 20378
THB 706 769 823
USD (1,2) 25714 0 0
USD (5,10,20) 25753 0 0
USD (50,100) 25781 25815 26157
Cập nhật: 23/05/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,795 25,795 26,155
USD(1-2-5) 24,763 - -
USD(10-20) 24,763 - -
GBP 34,437 34,530 35,443
HKD 3,260 3,270 3,369
CHF 31,025 31,121 31,988
JPY 178.1 178.42 186.38
THB 756.92 766.27 820.35
AUD 16,532 16,591 17,046
CAD 18,497 18,556 19,059
SGD 19,807 19,868 20,497
SEK - 2,666 2,761
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,879 4,013
NOK - 2,512 2,600
CNY - 3,568 3,665
RUB - - -
NZD 15,085 15,225 15,668
KRW 17.51 - 19.61
EUR 28,975 28,998 30,232
TWD 782.08 - 946.86
MYR 5,702.74 - 6,431.65
SAR - 6,808.75 7,166.68
KWD - 82,429 87,645
XAU - - -
Cập nhật: 23/05/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,824 28,940 30,048
GBP 34,226 34,363 35,338
HKD 3,252 3,265 3,370
CHF 30,894 31,018 31,934
JPY 176.59 177.30 184.70
AUD 16,396 16,462 16,992
SGD 19,789 19,868 20,413
THB 773 776 811
CAD 18,403 18,477 18,993
NZD 15,158 15,666
KRW 18.01 19.86
Cập nhật: 23/05/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25795 25795 26175
AUD 16347 16447 17014
CAD 18380 18480 19031
CHF 31044 31074 31948
CNY 0 3569.2 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29009 29109 29881
GBP 34341 34391 35494
HKD 0 3270 0
JPY 177.68 178.68 185.19
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15145 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19748 19878 20599
THB 0 736.3 0
TWD 0 850 0
XAU 11850000 11850000 12050000
XBJ 10000000 10000000 12100000
Cập nhật: 23/05/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,790 25,840 26,150
USD20 25,790 25,840 26,150
USD1 25,790 25,840 26,150
AUD 16,455 16,605 17,673
EUR 29,107 29,257 30,433
CAD 18,338 18,438 19,757
SGD 19,830 19,980 20,455
JPY 178.62 180.12 184.77
GBP 34,462 34,612 35,399
XAU 11,878,000 0 12,082,000
CNY 0 3,453 0
THB 0 773 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 23/05/2025 03:00