Nêu Tây Nguyên – Trống Tây Nguyên

06:55 | 28/01/2012

589 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Cây nêu là hình tượng văn hóa độc đáo, rất riêng của đời sống tinh thần vốn  trong sáng, vĩnh hằng của người dân Tây Nguyên đã tồn tại bao thế hệ đời nay.

Ở Tây Nguyên đồng bào các dân tộc Jrai hay Bah Nar đều có phong tục dựng cây nêu trong các lễ hội long trọng. Dựng nêu là nghi lễ để thờ cúng thần linh. Cây nêu cao vút với ý nghĩa thiêng liêng lẫm liệt mà thanh cao cầu mong sự an bình, khỏe mạnh, chống chọi và tồn tại giữa đất trời. Già làng Blưun kể rằng:

“Có nhiều dạng cây nêu nhưng chủ yếu là làm hai dạng, dạng thứ nhất đặt cây nêu trong lễ hội cúng giàng dựng làng mới. Đó là cây lồ ô cao hơn 20m, trên cùng có hình mặt trời và có gắn một con chim (đan bằng tre hoặc đẽo từ cây gỗ nhẹ) quay chung quanh nhằm biểu hiện sự tự do, đoạn giữa có gắn tai hoa văn mặt trời, đoạn gần cuối có tạc hình con rắn, thạch sùng, con rùa v.v…

Cây nêu thứ hai trong lễ hội đâm trâu tại nhà rông hay là khánh thành nhà rông (của làng và của gia đình), lễ hội mừng chiến thắng. Làm và dựng cây nêu này thật kỳ công và tỉ mỉ: tìm chọn một cây lồ ô dài 20m (cũng giống như cây nêu thứ nhất) được đặt ở giữa, tiếng Jơ Rai gọi là Luk. Ở giữa cây Luk có trồng 4 cây gạo biểu hiện sự cầu mong khỏe mạnh, an lành; 4 cây thấp hơn gọi là Ginga, dài khoảng 4m (dân làng chọn cây trứng cá vì mọt không ăn được) và có một tấm tre đan hình vuông đặt giữa cho chắc 4 cây; đồng thời cắm vào đó một cây uốn cong gọi là Go (bằng lồ ô) có các tua – tua này được làm bằng tre, dây rừng có 4 sắc màu đỏ, đen, trắng, vàng; đến đầu ngọn cây cong hình bông lúa gọi là Talep hoặc hình các con thú, chim các loại phất phơ bay bay khi có gió”.

Mỗi lần tham dự lễ hội, nếu ai đó chịu khó quan sát càng kỹ từng chi tiết thì sẽ thấy: riêng trên thân cây Luk có chạm khắc hoa văn tinh vi, kỳ thú. Người nghệ nhân vẽ, khắc lên thân cây rồi đem đốt vỏ đến khi đem bóc vỏ ra chỉ còn lại hình hoa văn “trắng – đen” rất đẹp.

Dưới cùng cây nêu đã cắm chặt xuống đất và neo vào một cây cọc cố định cũng thật chắc – ở gần bên để buộc con trâu vào đó và con trâu chạy chung quanh cây nêu.

Trong cuộc sống người dân Tây Nguyên, đặc biệt có một lễ hội rất quan trọng đối với họ là lễ “rước hồn lúa xuống” tức là làm lễ cúng để xúc lúa ra ăn. Mọi người uống rượu cần say sưa đến 2-3 ngày có đâm trâu và có dựng tượng trưng cây nêu nhỏ – còn có nơi làm rất lớn, linh đình.

Ngày hôm nay đồng bào các dân tộc Tây Nguyên sống chung và hòa nhập cộng đồng theo sự phát triển, tiến bộ chung cùng với các dân tộc khác, người Kinh. Cho nên có nơi có lúc dân làng dựng cây nêu vào dịp tết cổ truyền dân tộc là để hội nhập, chung hưởng niềm vui hân hoan chia tay năm cũ đi qua và đón một năm mới tốt lành đến, ai ai cũng làm ăn phát đạt, tấn tới. Mà cây nêu ở đó, vốn theo quan niệm truyền thống tại các làng quê xưa thuộc miền xuôi: dựng cây nêu ở đầu làng là để xua đuổi tà ma, điều xấu và đón sự may mắn, tốt lành đầu năm.

Cây nêu là hình tượng văn hóa độc đáo, rất riêng của đời sống tinh thần vốn trong sáng, vĩnh hằng của người dân Tây Nguyên đã tồn tại bao thế hệ đời nay. Cây nêu đáng được phát huy, gìn giữ và bảo vệ một cách trung thực, toàn tâm toàn ý như Nghị quyết 5 của Trung ương Đảng đã khẳng định: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

Chuyện rằng: Trống có 3 loại theo kích cỡ và sử dụng vào mục đích khác nhau.

- Trống nhỏ (tiếng Jrai gọi là Gor Pah). Dùng trong các lễ hội cồng chiêng có múa hát, lễ đâm trâu. Người đàn ông vỗ trống và đi giật lùi. Loại này giống như trống cơm (của người Kinh); trống vỗ chủ yếu nhịp đệm.

- Trống vừa (Gor Deh). Thường dùng trong lễ Pơ thi – có người chết trong làng.

Trống lớn (Gor Prong còn gọi là Gor Mơnơm là trống chuyên để cúng thần nhà). Trống này có hai vị trí đặt cố định (không di chuyển) ở trong nhà để cúng (nhà giàu) và trống đặt tại nhà rông. Loại này mặt trống có đường kính 1m và chiều dài từ 1m mốt trở lên (hiện còn thấy tại một số làng vùng Ayun Pa, Krông Pa, Kông Chro – còn lại bình thường các vùng đồng bào Jrai khác chỉ từ 60 đến 70cm).

Trống đặt ở trong nhà để cúng vào các lễ hội đâm trâu, mừng lúa mới, mừng nhà mới… Có những chiếc trống còn giữ lại từ đời ông cha đến cháu con và luôn được gìn giữ trân trọng. Đồng bào đến mùa sau khi gặt lúa xong, muốn đưa lúa lên chòi hoặc muốn lấy ra giã gạo ăn thì làm lễ cúng “Đưa hồn lúa xuống”. Lúc này trống sẽ được đánh theo nhịp giàn chiêng, chiêng dứt thì trống dứt.

Đặc biệt trống ở nhà rông (trống làng) chỉ có già làng được đánh trong những dịp hội làng như dựng làng hoặc chuyển làng hay đó là một sự kiện quan trọng: cúng làng để giàng cho mưa xuống lúc nắng hạn cứu cây lúa, cây khoai…; họp làng báo hiệu trong làng xảy ra chuyện không tốt (có người bị cọp bắt, dịch bệnh làm chết nhiều người trong làng) thì tiếng trống đánh lên dồn dập liên hồi, khẩn báo… Thuở xa xưa các bộ lạc tranh chấp nhau lãnh thổ, quyền lực hoặc hiệu lệnh chống giặc ngoại xâm (thời kháng chiến) thì nhà rông cũng vang lên tiếng trống kêu gọi sức mạnh cộng đồng, lòng quyết tâm cứu nước của Hội nghị Diên Hồng thuở cha ông xưa. Có những khi trống đánh hồi dài là già làng cúng báo cho giàng thôi không sấm, sét nữa.

Già làng kể lại rằng: Những chàng trai lực lưỡng, khỏe mạnh vào tận rừng sâu tìm cho được giống cây Mal (có lá to hình bầu dục, một mặt có phấn trắng) đốn thân cây to nhất chuyển về, cắt chọn một đoạn vừa ý dùng rìu vát dần và tìm tư thế đục khoét thành lỗ – công việc này phải tốn công nhiều ngày. Sau đó thổi lửa vào (thành thân trống). Da bịt trống phải chọn những con vật già (da dày) của con voi, min hoặc bò rừng. Không chọn da những con khác. Một mặt trống da con đực, một mặt trống da con cái. Và mặt phải (mặt đực) phải quay về hướng mặt trời mọc (hướng đông) và mặt trái (mặt cái) quay về hướng mặt trời lặn (hướng tây). Trống đặt ở nhà rông (hay ở nhà) phải tuân theo quy luật này. Vật liệu làm trống của người dân Tây Nguyên khác với người Kinh (ghép từng thân gỗ làm thân trống). Loại cây Mal là loại cây không nứt, tìm rất khó. Có vùng Jrai chọn cây Kte. Chính vì vậy những chiếc trống xưa còn lại đến bây giờ rất hiếm (vùng Ayun Pa có làng còn giữ trống Gor Mơnơm).

Cái trống là biểu trưng sức mạnh tinh thần, ý chí đoàn kết cộng đồng của người dân Tây Nguyên luôn được bảo vệ, gìn giữ và phát huy tác dụng. Cho dù ở đâu đó hôm nay, do lớp bụi thời gian làm phai mờ, khan hiếm (có nhiều làng không còn trống Gor Prong). Thậm chí có người quên mất vai trò lịch sử và huyền thoại của trống làng.

Tiếng trống ngàn xưa vọng lại nhắc nhở cháu con: Hãy đoàn kết bên nhau đấu tranh và chung sức chung lòng vươn lên trong cuộc sống, vượt qua thử thách, số phận làm đẹp cuộc đời.

Lê Bá Tuế