Ngành ngân hàng

Khó giảm lãi suất cho vay

08:00 | 04/04/2018

369 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Năm 2018, phấn đấu giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà ngành ngân hàng đặt ra. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, có nhiều rào cản khiến lãi suất cho vay khó giảm.

Có nhiều thuận lợi bước đầu

Thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách Nhà nước năm 2018 và định hướng điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với hoạt động ngân hàng, ngay từ đầu năm, rất nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) đã có động thái giảm lãi suất cho vay. Cụ thể, Vietcombank, Agribank, Vietinbank và BIDV đã điều chỉnh giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn, trung, dài hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên và VPBank cũng điều chỉnh giảm 0,5-1%/năm lãi suất cho vay đối với khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động tốt trong các lĩnh vực hàng tiêu dùng, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến, chế tạo và môi trường. Theo đó, sau điều chỉnh, mặt bằng lãi suất cho vay ở lĩnh vực trên giảm xuống tối đa 6%/năm đối với ngắn hạn và khoảng 7%/năm với trung và dài hạn.

kho giam lai suat cho vay 503150

Trước đó, ngay từ giữa năm 2017, NHNN cũng khuyến khích các NHTM cung cấp vốn cho các doanh nghiệp thông qua việc hạ 0,25%/năm lãi suất điều hành, trong đó có lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, lãi suất thanh toán bù trừ trong hệ thống ngân hàng cho các NHTM với mong muốn các ngân hàng được hạ lãi suất sẽ tác động đến việc hạ lãi suất cho doanh nghiệp.

Cũng trong năm 2017, Chính phủ đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát ở mức thấp, chỉ 3,53% và sang năm 2018, Chính phủ đưa ra nhiệm vụ tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát dưới 4%… Đây là những cơ sở kinh tế vĩ mô được đánh giá là thuận lợi bước đầu để các NHTM tiếp tục giảm lãi suất cho vay trong năm 2018.

Nhiều ngân hàng như GPBank, BacA Bank, NCB, DongA Bank… đều có mức lãi suất huy động từ 7%/năm trở lên đối với kỳ hạn gửi 6 tháng, trong khi lãi suất của kỳ hạn này ở nhóm ngân hàng lớn như BIDV, VietinBank, Agribank chỉ 5,1-5,3%/năm.

Về phía ngân hàng, trong năm 2017, các NHTM đã hoạt động hiệu quả hơn với mức tăng trưởng lợi nhuận ấn tượng trên 40%, thanh khoản cải thiện, nguồn cung tín dụng dồi dào… tạo điều kiện cho việc giảm lãi suất cho vay.

Chuyên gia kinh tế Lê Xuân Nghĩa nhận định, thời gian gần đây, khoảng cách lãi suất tiền gửi và cho vay có lợi cho ngân hàng. Các NHTM có mức tăng lợi nhuận đáng kể, đặc biệt năm 2017 tăng trưởng lợi nhuận đến 40% và kỳ vọng mức tăng này tiếp tục được duy trì trong năm 2018. Trong bối cảnh đó, các NHTM có thể giảm lãi suất cho vay, tạo ra thị trường cạnh tranh hơn về lãi suất.

Năm 2018 được đánh giá là năm có nhiều điều kiện thuận lợi để giảm lãi suất cho vay, hình thành mặt bằng lãi suất mới thấp hơn hiện tại, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng để đẩy mạnh đầu tư, sản xuất kinh doanh, tăng trưởng bền vững.

Nhưng lãi suất cho vay khó giảm

Mặc dù các NHTM đã có nhiều nỗ lực, tuy nhiên từ đầu năm đến nay, hầu như chỉ có một số NHTM lớn giảm khoảng 0,5-1% lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên. Trong khi đó, trên thị trường có nhiều yếu tố được đánh giá là rào cản cho việc giảm lãi suất cho vay trong năm 2018, nhất là việc một số NHTM hạng trung và nhỏ đang tiếp tục tăng lãi suất huy động để thu hút vốn.

Theo thống kê của NHNN, số dư tiền gửi bằng VND của các tổ chức tín dụng tại NHNN bình quân mỗi ngày cao hơn mức dự trữ bắt buộc gần 63.000 tỉ đồng. Tuy nhiên, nguồn vốn dư thừa này lại tập trung chủ yếu ở nhóm NHTM Nhà nước và một số NHTM cổ phần lớn. Nhóm NHTM cổ phần quy mô nhỏ vẫn rất chật vật trong việc bảo đảm nguồn vốn cho vay. Và gần đây, nhiều ngân hàng nhỏ phải đẩy lãi suất huy động lên mức cao nhằm tăng khả năng thu hút vốn để có tiền cho vay, dẫn đến lãi suất cho vay khó giảm được.

Đơn cử, gần đây Viet Capital Bank đã điều chỉnh lãi suất tiền gửi kỳ hạn dài lên khá cao: 8,3%/năm kỳ hạn 13 tháng, tăng 0,3%/năm so với cuối năm 2017 và lãi suất tiền gửi kỳ hạn 15 tháng tới 8,5%/năm.

Nhiều ngân hàng như GPBank, BacA Bank, NCB, DongA Bank… đều có mức lãi suất huy động từ 7%/năm trở lên đối với kỳ hạn gửi 6 tháng, trong khi lãi suất của kỳ hạn này ở nhóm ngân hàng lớn như BIDV, VietinBank, Agribank chỉ 5,1-5,3%/năm.

kho giam lai suat cho vay 503150

Các chuyên gia nhận định, mặc dù các yếu tố vĩ mô thuận lợi, lạm phát thấp, nhưng lãi suất huy động chưa giảm được thì các NHTM khó có thể giảm được lãi suất cho vay. Trong khi đó, hiện nay các kênh đầu tư khác như bất động sản, chứng khoán đang rất hấp dẫn nên lượng tiền đổ vào các kênh đầu tư này cũng rất lớn. Do đó, để thu hút nguồn tiền gửi tiết kiệm, các ngân hàng khó có thể giảm lãi suất huy động.

Ông Trương Văn Phước, quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, đánh giá mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2018 là 6,7%, thấp hơn so với mức thực hiện năm 2017 là 6,81%, nhưng so sánh với các quốc gia khác, đây là mục tiêu rất cao, cầu tín dụng nội địa hiện rất lớn nên lãi suất có thể ổn định, nếu giảm được cũng chỉ ở mức rất nhỏ trong năm 2018. Xu hướng giảm lãi suất cho vay là xu hướng tất yếu, để giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên để làm được điều đó thì phải giải quyết nhiều vấn đề như ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, xử lý các NHTM yếu kém, giảm chi phí hoạt động ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng để tránh phát sinh nợ xấu...

Theo NHNN, hiện mặt bằng lãi suất huy động VND phổ biến ở mức 0,8-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,3-5,5%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,3-6,5%/năm đối kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,5-7,3%/năm.

Mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6 - 6,5%/năm đối với ngắn hạn. Nhiều NHTM áp dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 9-10%/năm. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8-8,5%/năm đối với ngắn hạn, 9,3-10,3%/năm đối với trung và dài hạn.

Mai Phương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
AVPL/SJC HCM 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
AVPL/SJC ĐN 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 ▲300K 74,400 ▲300K
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 ▲300K 74,300 ▲300K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.300 ▲1300K 84.300 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,305 ▲20K 7,520 ▲20K
Trang sức 99.9 7,295 ▲20K 7,510 ▲20K
NL 99.99 7,300 ▲20K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,280 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,370 ▲20K 7,550 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,370 ▲20K 7,550 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,370 ▲20K 7,550 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲100K 8,400 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲100K 8,400 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲100K 8,400 ▲90K
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,300 ▲1300K 84,300 ▲1000K
SJC 5c 82,300 ▲1300K 84,320 ▲1000K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,300 ▲1300K 84,330 ▲1000K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 ▲200K 74,900 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 ▲200K 75,000 ▲200K
Nữ Trang 99.99% 72,900 ▲300K 74,100 ▲200K
Nữ Trang 99% 71,366 ▲198K 73,366 ▲198K
Nữ Trang 68% 48,043 ▲136K 50,543 ▲136K
Nữ Trang 41.7% 28,553 ▲84K 31,053 ▲84K
Cập nhật: 24/04/2024 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,098.90 16,261.52 16,783.15
CAD 18,159.20 18,342.62 18,931.01
CHF 27,214.88 27,489.78 28,371.59
CNY 3,440.60 3,475.35 3,587.37
DKK - 3,586.19 3,723.51
EUR 26,548.81 26,816.98 28,004.42
GBP 30,881.03 31,192.96 32,193.56
HKD 3,165.67 3,197.64 3,300.22
INR - 304.71 316.89
JPY 159.47 161.08 168.78
KRW 16.06 17.84 19.46
KWD - 82,400.13 85,694.10
MYR - 5,275.13 5,390.17
NOK - 2,287.26 2,384.36
RUB - 259.87 287.68
SAR - 6,766.53 7,037.03
SEK - 2,308.48 2,406.48
SGD 18,233.95 18,418.13 19,008.95
THB 609.28 676.97 702.90
USD 25,147.00 25,177.00 25,487.00
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,279 16,379 16,829
CAD 18,384 18,484 19,034
CHF 27,460 27,565 28,365
CNY - 3,473 3,583
DKK - 3,603 3,733
EUR #26,788 26,823 28,083
GBP 31,316 31,366 32,326
HKD 3,173 3,188 3,323
JPY 161.04 161.04 168.99
KRW 16.79 17.59 20.39
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,294 2,374
NZD 14,872 14,922 15,439
SEK - 2,306 2,416
SGD 18,256 18,356 19,086
THB 636.99 681.33 704.99
USD #25,180 25,180 25,487
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,187.00 25,487.00
EUR 26,723.00 26,830.00 28,048.00
GBP 31,041.00 31,228.00 3,224.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,304.00
CHF 27,391.00 27,501.00 28,375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16,226.00 16,291.00 16,803.00
SGD 18,366.00 18,440.00 19,000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18,295.00 18,368.00 18,925.00
NZD 14,879.00 15,393.00
KRW 17.79 19.46
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25244 25244 25487
AUD 16382 16432 16934
CAD 18421 18471 18923
CHF 27649 27699 28264
CNY 0 3476.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26985 27035 27745
GBP 31433 31483 32151
HKD 0 3140 0
JPY 162.31 162.81 167.35
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0368 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14916 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18509 18559 19120
THB 0 650.1 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8380000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 24/04/2024 12:00