Việt Nam sắp "vượt mặt" Thái Lan, trở thành "ông lớn" ngành xe hơi khu vực?

06:45 | 27/10/2020

188 lượt xem
|
(PetroTimes) - Hàng loạt hãng xe tuyên bố mở rộng quy mô, tăng lắp ráp tại Việt Nam đã khiến nhiều người hy vọng viễn cảnh Việt Nam trở thành "ông lớn" trong ngành sản xuất xe hơi và "vượt mặt" Thái Lan.

Tuy nhiên, để làm được điều này, ngành công nghiệp xe cần vượt qua nhiều thách thức, thậm chí phải có chiến lược bài bản hơn các đối thủ Thái Lan, Indonesia.

Việt Nam - cứ điểm mới cho ngành xe hơi ASEAN?

Năm 2019 - 2020, Ford Việt Nam đã tuyên bố đầu tư thêm hơn 80 triệu USD mở rộng quy mô nhà máy tại Hải Dương. Hãng này cam kết sẽ tăng cường lắp ráp nhiều mẫu xe tại Việt Nam với kế hoạch năm 2022 đạt khoảng 40.000 xe.

Việt Nam sắp vượt mặt Thái Lan, trở thành ông lớn ngành xe hơi khu vực? - 1
Các doanh nghiệp hồ hởi quay trở lại Việt Nam lắp ráp xe, nhưng chớ vội mừng vì phải xem chiến lược của hãng, tạm thời hay phát triển lâu dài, chiến lược.

Năm 2017, Mitsubishi và Nissan đã tuyên bố mở rộng tại Việt Nam, một số mẫu xe hàng "hot" của Mitsubishi như Outlander, Xpander hay Nissan Sunny, X Trail đã được lắp ráp tại Việt Nam với số lượng lớn.

Gần đây, hai ông lớn xe liên doanh Việt Nam như Honda và Toyota đã tăng cường lắp ráp hai mẫu xe doanh số cao nhất của mình ở Việt Nam. Cụ thể như Toyota quyết định nội địa hóa bản xe doanh số cao Fortuner; trong khi đó Honda CRV cũng được lắp ráp bản mới ở Việt Nam.

Trong khi đó, thông tin Suzuki lên phương án sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam vừa qua đang gây sự chú ý trong dư luận.

Như vậy, có thể nói, ngành ô tô Việt đã và đang có sự có mặt đầy đủ của các nhà sản xuất xe hàng đầu thế giới với khu vực, bên cạnh các nhà sản xuất, lắp ráp xe liên doanh, tư nhân lớn như Thành Công, Thaco, VinFast.

Với quy mô thị trường 100 triệu dân, tỷ lệ sở hữu xe/người thấp, Việt Nam là cơ hội cho mọi nhà sản xuất, lắp ráp xe hơi trên thế giới.

Hiện nay, Chính phủ Việt Nam có chính sách hướng đến ưu đãi cho sản xuất, lắp ráp xe tốt nhất trong vòng 30 năm qua, trong đó có Nghị định 57/2020 miễn giảm thuế nhập khẩu các loại linh kiện cho doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe tại Việt Nam, điều kiện là họ đáp ứng đủ sản lượng chung và riêng tối thiểu theo quy định.

Đây là chính sách được lòng những doanh nghiệp sản xuất xe hơi tại Việt Nam, bởi nhờ đó giảm chi phí sản xuất, giảm giá bán xe trong bối cảnh chi phí sản xuất xe tại Việt Nam đã và đang cao hơn 20% so với các nước trong khu vực do các linh phụ kiện phải phụ thuộc nhập khẩu số lượng lớn.

Ngoài chính sách giảm, miễn thuế nhập linh kiện, nhiều đề xuất điều chỉnh Thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với xe hơi được các cơ quan Bộ ngành, liên hiệp hội sản xuất, kinh doanh xe đưa ra.

Động thái điều chỉnh chính sách có thể được Quốc hội xem xét từ năm 2021 - 2022, điều này có lợi cho các nhà sản xuất, cũng như khách mua xe tại Việt Nam.

Cơ sở để các nhà sản xuất xe hơi hướng đến thị trường Việt là do tỷ lệ xe trên người của Việt Nam hiện thấp nhất khu vực, với 23 chiếc/1.000 dân. Trong khi đó, thu nhập bình quân/người của Việt Nam đang được cải thiện (ước đạt khoảng 2.750 USD/người/năm 2020 - PV), giá xe tại Việt Nam cao... Đây là dư địa tốt để các dòng xe, mẫu xe phổ thông giá rẻ có cơ hội tăng trưởng doanh số trong tương lai và là lợi thế để các nhà đầu tư quyết định bỏ vốn, mở rộng nhà máy tại Việt Nam.

Phải vượt qua chính mình trước khi so bì đối thủ

Dù có cơ hội và trở thành điểm thu hút đầu tư, song ngành công nghiệp xe hơi Việt cần khắc phục các bất cập.

Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu - chuyên gia tài chính ngân hàng: Đối với bất cứ ngành, lĩnh vực đầu tư nào ở Việt Nam, điều đầu tiên họ quan tâm là biên lợi nhuận, an toàn vốn và rủi ro chính sách.

Việt Nam sắp vượt mặt Thái Lan, trở thành ông lớn ngành xe hơi khu vực? - 2
Việt Nam bỏ thuế nhập xe, tham gia nhiều điều ước quốc tế, cơ hội cho các doanh nghiệp xe trong nước chỉ được tính bằng năm, thay vì nhiều thập niên được hưởng bàn bay bao bọc như trước đây

Theo ông Hiếu, biên lợi nhuận của ngành công nghiệp xe hơi Việt khá lớn, cơ hội rõ rệt khi Việt Nam dường như "cởi bỏ" nhiều nút thắt về thuế đối với linh kiện nhập khẩu, cùng với đó là sự ưu ái của Chính phủ cho các doanh nghiệp ô tô lớn phát triển chuỗi liên kết. Đặc biệt, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng lên, một đất nước đang trỗi dậy không có lý do gì để không bỏ vốn.

Về rủi ro chính sách, theo TS. Hiếu, đây là điều các nhà đầu tư trăn trở nhất, khi Chính phủ vừa cho miễn 50% phí trước bạ đối với ô tô trong nước và giữ nguyên với xe nhập. Tuy nhiên, điều này cũng không quá quan trọng bởi hiện các sân chơi thương mại đa phương thế hệ mới như EVFTA, CPTPP mà Việt Nam đã là thành viên, các chính sách và lộ trình đều được lên kế hoạch, sẽ có "lằn ranh" hạn chế sự can thiệp thị trường của bàn tay Nhà nước.

Cũng theo giới chuyên gia, một yếu tố khiến năng lực cạnh tranh ngành ô tô Việt Nam yếu là chuỗi cung ứng và sản xuất chưa khép kín, chưa đồng bộ. Việt Nam có vài trăm doanh nghiệp phụ trợ, nhưng Thái Lan, Indonesia có vài nghìn, thậm chục nghìn doanh nghiệp phụ trợ để cung ứng linh kiện.

Điểm bất cập này chỉ có thể được khắc phục nếu Việt Nam xóa bỏ thuế nhập khẩu linh kiện xe hơi (thực tế Việt Nam đã làm - PV) mới xóa nhòa được khoảng cách phát triển.

Bên cạnh đó, một thách thức khiến ngành xe Việt phải vượt qua là chiến lược phát triển xe hơi quốc gia. Hiện Thái Lan, Indonesia hay Trung Quốc đã lên phương án và thực hiện chiến lược phát triển ngành xe hơi theo hướng sản xuất xe xanh, sạch và vật liệu mới.

Riêng Trung Quốc, bằng chiến lược thâu tóm - kết hợp, đã tạo ra nhiều hãng xe nội địa, liên doanh để ra đời các mẫu xe, dòng xe giá rẻ, xâm nhập thị trường Đông Nam Á, châu Phi với nhiều cách thức khác nhau. Chiến lược cạnh tranh, xâm nhập thị trường thông qua quảng bá ồ ạt, bỏ giá rẻ và đưa ra hàng loạt mẫu xe giá rẻ khiến nhiều áp lực đối với các doanh nghiệp xe hơi các nước cực kỳ lớn.

Trong khi đó, Thái Lan, Indonesia vẫn là những "ông lớn" ngành xe hơi ASEAN, việc phát triển đa dạng mẫu xe dựa trên khung gầm platform của các mẫu bán tải (pickup) đã khiến Thái Lan dẫn đầu thị trường thế giới về phân khúc này. Dựa vào các platfrom, Thái Lan mở rộng lắp ráp được các mẫu SUV, Crossover hay CUV một cách dễ dàng.

Trong khi chiến lược phát triển xe xanh của Việt Nam vẫn chỉ được một vài hãng lưu tâm, Thái Lan đã xây dựng mục tiêu đến năm 2025 sẽ thành trung tâm của xe điện ASEAN. Bước đi của người Thái đã có và rõ hơn Việt Nam từ rất sớm.

Để vượt qua và vươn lên trở thành ông "kẹ" ngành xe hơi ASEAN, Việt Nam sẽ phải nỗ lực rất nhiều, thậm chí phải có chính sách, chiến lược "vượt rào" mới có thể thúc đẩy ngành công nghiệp non trẻ, thúc đẩy các nỗ lực của doanh nghiệp đi đến kết quả mong đợi.

Theo Dân trí

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 145,000 148,000
Hà Nội - PNJ 145,000 148,000
Đà Nẵng - PNJ 145,000 148,000
Miền Tây - PNJ 145,000 148,000
Tây Nguyên - PNJ 145,000 148,000
Đông Nam Bộ - PNJ 145,000 148,000
Cập nhật: 07/11/2025 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,640 14,840
Miếng SJC Nghệ An 14,640 14,840
Miếng SJC Thái Bình 14,640 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,540 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,540 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,540 14,840
NL 99.99 13,870
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,870
Trang sức 99.9 14,130 14,730
Trang sức 99.99 14,140 14,740
Cập nhật: 07/11/2025 23:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,464 14,842
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,464 14,843
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,433 1,458
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,433 1,459
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,418 1,448
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,866 143,366
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,261 108,761
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,124 98,624
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,987 88,487
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,077 84,577
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,038 60,538
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Cập nhật: 07/11/2025 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16521 16789 17368
CAD 18105 18380 18994
CHF 31908 32289 32933
CNY 0 3470 3830
EUR 29726 29998 31021
GBP 33659 34047 34989
HKD 0 3252 3454
JPY 164 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14461 15050
SGD 19642 19923 20446
THB 728 792 845
USD (1,2) 26044 0 0
USD (5,10,20) 26085 0 0
USD (50,100) 26114 26133 26358
Cập nhật: 07/11/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,118 26,118 26,358
USD(1-2-5) 25,074 - -
USD(10-20) 25,074 - -
EUR 29,928 29,952 31,112
JPY 168.34 168.64 175.86
GBP 34,116 34,208 35,038
AUD 16,812 16,873 17,321
CAD 18,332 18,391 18,930
CHF 32,266 32,366 33,053
SGD 19,801 19,863 20,493
CNY - 3,645 3,744
HKD 3,331 3,341 3,426
KRW 16.71 17.43 18.73
THB 777.45 787.05 837.86
NZD 14,468 14,602 14,956
SEK - 2,706 2,787
DKK - 4,004 4,123
NOK - 2,541 2,617
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,903.02 - 6,626.2
TWD 768.46 - 925.94
SAR - 6,912.77 7,241.79
KWD - 83,600 88,470
Cập nhật: 07/11/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,135 26,138 26,358
EUR 29,794 29,914 31,044
GBP 33,939 34,075 35,042
HKD 3,318 3,331 3,438
CHF 32,043 32,172 33,062
JPY 167.84 168.51 175.69
AUD 16,732 16,799 17,335
SGD 19,823 19,903 20,442
THB 791 794 830
CAD 18,308 18,382 18,914
NZD 14,581 15,088
KRW 17.42 19.04
Cập nhật: 07/11/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26162 26162 26358
AUD 16703 16803 17729
CAD 18285 18385 19399
CHF 32145 32175 33761
CNY 0 3658.5 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29905 29935 31658
GBP 33954 34004 35765
HKD 0 3390 0
JPY 167.88 168.38 178.93
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14573 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19796 19926 20658
THB 0 757.8 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14640000 14640000 14840000
SBJ 14000000 14000000 14840000
Cập nhật: 07/11/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,130 26,180 26,358
USD20 26,130 26,180 26,358
USD1 23,848 26,180 26,358
AUD 16,745 16,845 17,981
EUR 30,042 30,042 31,391
CAD 18,226 18,326 19,661
SGD 19,869 20,019 20,507
JPY 168.32 169.82 174.64
GBP 34,045 34,195 35,008
XAU 14,638,000 0 14,842,000
CNY 0 3,543 0
THB 0 793 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/11/2025 23:00