Trung Quốc chấm dứt đầu tư điện than ở nước ngoài

10:41 | 21/12/2021

362 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gần đây tuyên bố chấm dứt đầu tư vào các nhà máy điện than mới ở nước ngoài. Quyết định này có lợi cho tiến trình giảm phát thải khí nhà kính, nhưng có thể gây nguy hiểm cho chính sách năng lượng của châu Phi, nơi Trung Quốc có nhiều dự án đầu tư nhiệt điện than.
Trung Quốc chấm dứt đầu tư điện than ở nước ngoài
Ông Tập Cận Bình tuyên bố: Trung Quốc sẽ ngừng xây dựng các dự án nhiệt điện than mới ở nước ngoài

Trong bài phát biểu tại kỳ họp thứ 76 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thông báo việc Trung Quốc chấm dứt đầu tư vào các nhà máy điện than mới ở nước ngoài.

Tuyên bố của ông Tập Cận Bình đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của các nhà hoạt động khí hậu. “Than trở thành dĩ vãng”, “một bước tiến lớn”, “một cuộc cách mạng nhỏ” là những câu nói của Chủ tịch COP26 Alok Sharma để chào đón bước ngoặt này.

“Cam kết của Trung Quốc cho thấy kênh tài chính công quốc tế dành cho than đang cạn kiệt. Nó thể hiện một bước ngoặt lịch sử trong việc từ bỏ nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm nhất trên thế giới”, bà Helen Mountford - Phó chủ tịch phụ trách khí hậu và kinh tế của Viện Tài nguyên thế giới, khẳng định.

Tuy nhiên, Chủ tịch Trung Quốc không cung cấp thông tin chi tiết về hướng đi, thời gian chấm dứt tài trợ cho các nhà máy điện than mới ở nước ngoài. Có thể dễ dàng hiểu được điều này, bởi trong nhiều năm qua, Trung Quốc là nhà cung cấp tài chính hàng đầu cho các dự án nhiệt điện than trên khắp thế giới.

Báo cáo của Oil Change International công bố vào tháng 3-2021 cho thấy, nguồn tài chính cho các dự án khai thác than, các nhà máy nhiệt điện than hầu như chỉ được cung cấp bởi các ngân hàng Trung Quốc như Industrial Bank, China Construction Bank, Bank of China, Ngân hàng Công thương Trung Quốc.

Đầu tư nước ngoài của Trung Quốc tập trung ở Đông Nam Á (đặc biệt là Indonesia và Việt Nam) và châu Phi. Ở khu vực châu Phi, Cơ quan Giám sát năng lượng toàn cầu (GEM) liệt kê các ngân hàng Trung Quốc tham gia 4 trong 5 dự án nhiệt điện than đã hoàn thành. Sự hiện diện của Trung Quốc còn rõ ràng hơn khi xem xét các dự án nhiệt điện than đang dự toán kinh phí. Các ngân hàng Trung Quốc hiện hữu phần lớn trong những dự án nhiệt điện than ở Malawi, Kenya, Zambia, Mozambique, Botswana, Zimbabwe.

Trung Quốc chấm dứt đầu tư điện than ở nước ngoài
Khai thác than ở Nam Phi

Vào tháng 5-2020, Trung Quốc đã đồng ý tài trợ cho dự án 4,2 tỉ USD để xây dựng Nhà máy Nhiệt điện than Sengwa khổng lồ ở Zimbabwe, sau đó thông báo rút lui vào tháng 6-2021. Tuyên bố của một trong những nhà quản lý dự án địa phương cho thấy rõ sự phụ thuộc của các nước châu Phi vào tài trợ của Trung Quốc. “Chúng tôi rất vui vì dự án đang được tiến hành, đặc biệt là khi các ngân hàng lớn trên thế giới buộc phải ngừng cấp vốn cho các nhà máy nhiệt điện than. Nhưng thật buồn là giờ đây dự án đã bị dừng lại vì thiếu vốn” - Caleb Dengu, Chủ tịch công ty quản lý Dự án RioZim Energy, thừa nhận.

Một nghịch lý là các ngân hàng Nam Phi, quốc gia phụ thuộc 80% vào than cho nhu cầu điện, đang tham gia xu hướng ngừng tài trợ cho các dự án than và nhiệt điện than. Vài tháng trước, Nedbank cho biết ý định không còn tài trợ cho các dự án than mới kể từ năm 2025. Đây là ngân hàng đầu tiên ở châu Phi bỏ cuộc.

Để đạt được lượng carbon ròng bằng 0 vào năm 2050, Ngân hàng FirstRand của Nam Phi đã công bố quyết định không còn tài trợ cho các mỏ than mới hoặc nhà máy nhiệt điện than mới.

Than không đại diện cho nguồn thu nhập xuất khẩu chính của các quốc gia châu Phi nhưng than lại là nhiên liệu chính tạo ra nguồn điện ở những quốc gia lục địa đen. Ngoài ra, trong khi một số quốc gia như Zambia, Nam Phi hay Zimbabwe phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt năng lượng tái diễn, thì việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới là một trong những giải pháp được cân nhắc, đặc biệt là khi trữ lượng than chưa được khai thác vẫn còn rất lớn.

“Thế giới tiếp tục coi than đá như một loại khoáng sản bẩn. Nhưng chúng tôi tin rằng không thể bỏ mặc nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào do Chúa ban tặng. Chúng tôi cần khai thác nó một cách sạch sẽ hơn vì lợi ích của cộng đồng và quốc gia” - Lefoko Moagi, Bộ trưởng Khoáng sản, Công nghệ xanh và Tài nguyên năng lượng của Botswana, tóm tắt tư duy chung của các quốc gia châu Phi.

Với sự kết thúc của các dự án khai thác than mới, cùng với đó là sự từ bỏ trữ lượng than khổng lồ, bức tranh năng lượng của các nước châu Phi không hoàn toàn ảm đạm. Là một phần của cuộc cách mạng xanh, các quốc gia bị ảnh hưởng bởi việc rút khỏi lĩnh vực than đá thực sự có thể hưởng lợi từ nguồn tài chính mới cho các dự án năng lượng sạch như điện mặt trời và điện gió, những dự án này đã được thực hiện ở quy mô nhỏ ở các quốc gia châu Phi.

Các đại diện Mỹ, Anh, Đức, Pháp... đã bắt đầu các cuộc đàm phán với chính phủ và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp châu Phi. Các cuộc thảo luận sẽ giúp xác định cách các nước giàu có thể hỗ trợ việc chấm dứt phụ thuộc vào than đá. Mỹ và Trung Quốc đã thông báo về các sáng kiến có lợi cho một chiến lược như vậy, rất nhiều hy vọng cho khu vực phía nam châu Phi.

“Trung Quốc sẽ tăng cường hỗ trợ các nước đang phát triển khác để phát triển năng lượng xanh và carbon thấp”, ông Tập Cận Bình nói.

Báo cáo của Oil Change International công bố vào tháng 3-2021 cho thấy, nguồn tài chính cho các dự án khai thác than, các nhà máy nhiệt điện than hầu như chỉ được cung cấp bởi các ngân hàng Trung Quốc như Industrial Bank, China Construction Bank, Bank of China, Ngân hàng Công thương Trung Quốc.

S.Phương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 91,000 ▲100K 93,000 ▲100K
AVPL/SJC HCM 91,000 ▲100K 93,000 ▲100K
AVPL/SJC ĐN 91,000 ▲100K 93,000 ▲100K
Nguyên liệu 9999 - HN 92,100 ▲200K 92,600 ▲100K
Nguyên liệu 999 - HN 92,000 ▲200K 92,500 ▲100K
AVPL/SJC Cần Thơ 91,000 ▲100K 93,000 ▲100K
Cập nhật: 11/03/2025 18:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 92.000 ▲200K 93.400 ▲50K
TPHCM - SJC 91.000 ▲100K 93.000 ▲100K
Hà Nội - PNJ 92.000 ▲200K 93.400 ▲50K
Hà Nội - SJC 91.000 ▲100K 93.000 ▲100K
Đà Nẵng - PNJ 92.000 ▲200K 93.400 ▲50K
Đà Nẵng - SJC 91.000 ▲100K 93.000 ▲100K
Miền Tây - PNJ 92.000 ▲200K 93.400 ▲50K
Miền Tây - SJC 91.000 ▲100K 93.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - PNJ 92.000 ▲200K 93.400 ▲50K
Giá vàng nữ trang - SJC 91.000 ▲100K 93.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 92.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - SJC 91.000 ▲100K 93.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 92.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 90.800 93.300
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 90.710 93.210
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 89.970 92.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 83.060 85.560
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 67.630 70.130
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 61.090 63.590
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 58.300 60.800
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 54.560 57.060
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 52.230 54.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 36.460 38.960
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 32.640 35.140
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 28.440 30.940
Cập nhật: 11/03/2025 18:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 9,110 ▲10K 9,340
Trang sức 99.9 9,100 ▲10K 9,330
NL 99.99 9,110 ▲10K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 9,100 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 9,200 ▲10K 9,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 9,200 ▲10K 9,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 9,200 ▲10K 9,350
Miếng SJC Thái Bình 9,100 ▼10K 9,300 ▼10K
Miếng SJC Nghệ An 9,100 ▼10K 9,300 ▼10K
Miếng SJC Hà Nội 9,100 ▼10K 9,300 ▼10K
Cập nhật: 11/03/2025 18:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 15498 15762 16392
CAD 17137 17408 18026
CHF 28288 28655 29299
CNY 0 3358 3600
EUR 27173 27434 28467
GBP 32133 32516 33455
HKD 0 3147 3350
JPY 166 170 176
KRW 0 0 19
NZD 0 14220 14809
SGD 18598 18875 19403
THB 669 732 785
USD (1,2) 25209 0 0
USD (5,10,20) 25245 0 0
USD (50,100) 25272 25305 25650
Cập nhật: 11/03/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,300 25,300 25,660
USD(1-2-5) 24,288 - -
USD(10-20) 24,288 - -
GBP 32,504 32,579 33,457
HKD 3,224 3,231 3,330
CHF 28,594 28,622 29,427
JPY 169.78 170.05 177.69
THB 692.26 726.7 777.71
AUD 15,823 15,847 16,278
CAD 17,466 17,490 17,968
SGD 18,799 18,877 19,475
SEK - 2,497 2,585
LAK - 0.9 1.25
DKK - 3,662 3,789
NOK - 2,342 2,427
CNY - 3,486 3,581
RUB - - -
NZD 14,260 14,349 14,765
KRW 15.37 - 18.23
EUR 27,321 27,365 28,575
TWD 700.3 - 847.38
MYR 5,388.39 - 6,081.31
SAR - 6,678.62 7,031.61
KWD - 80,501 85,618
XAU - - 92,600
Cập nhật: 11/03/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,300 25,320 25,660
EUR 27,113 27,222 28,331
GBP 32,246 32,375 33,334
HKD 3,215 3,228 3,335
CHF 28,417 28,531 29,432
JPY 169.13 169.81 177.11
AUD 15,668 15,731 16,250
SGD 18,772 18,847 19,389
THB 732 735 767
CAD 17,343 17,413 17,918
NZD 14,256 14,756
KRW 16.72 18.44
Cập nhật: 11/03/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25285 25285 25645
AUD 15652 15752 16327
CAD 17308 17408 17964
CHF 28531 28561 29447
CNY 0 3485.6 0
CZK 0 1005 0
DKK 0 3540 0
EUR 27297 27397 28277
GBP 32403 32453 33561
HKD 0 3280 0
JPY 170.04 170.54 177.07
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.1 0
LAK 0 1.138 0
MYR 0 5890 0
NOK 0 2265 0
NZD 0 14320 0
PHP 0 414 0
SEK 0 2340 0
SGD 18746 18876 19608
THB 0 697.1 0
TWD 0 775 0
XAU 9080000 9080000 9280000
XBJ 8000000 8000000 9280000
Cập nhật: 11/03/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,290 25,340 25,630
USD20 25,290 25,340 25,630
USD1 25,290 25,340 25,630
AUD 15,712 15,862 16,929
EUR 27,492 27,642 28,814
CAD 17,255 17,355 18,669
SGD 18,826 18,976 19,548
JPY 169.9 171.4 176.02
GBP 32,517 32,667 33,454
XAU 9,078,000 0 9,282,000
CNY 0 3,370 0
THB 0 0 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 11/03/2025 18:00