Trung Quốc chấm dứt đầu tư điện than ở nước ngoài

10:41 | 21/12/2021

306 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gần đây tuyên bố chấm dứt đầu tư vào các nhà máy điện than mới ở nước ngoài. Quyết định này có lợi cho tiến trình giảm phát thải khí nhà kính, nhưng có thể gây nguy hiểm cho chính sách năng lượng của châu Phi, nơi Trung Quốc có nhiều dự án đầu tư nhiệt điện than.
Trung Quốc chấm dứt đầu tư điện than ở nước ngoài
Ông Tập Cận Bình tuyên bố: Trung Quốc sẽ ngừng xây dựng các dự án nhiệt điện than mới ở nước ngoài

Trong bài phát biểu tại kỳ họp thứ 76 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thông báo việc Trung Quốc chấm dứt đầu tư vào các nhà máy điện than mới ở nước ngoài.

Tuyên bố của ông Tập Cận Bình đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của các nhà hoạt động khí hậu. “Than trở thành dĩ vãng”, “một bước tiến lớn”, “một cuộc cách mạng nhỏ” là những câu nói của Chủ tịch COP26 Alok Sharma để chào đón bước ngoặt này.

“Cam kết của Trung Quốc cho thấy kênh tài chính công quốc tế dành cho than đang cạn kiệt. Nó thể hiện một bước ngoặt lịch sử trong việc từ bỏ nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm nhất trên thế giới”, bà Helen Mountford - Phó chủ tịch phụ trách khí hậu và kinh tế của Viện Tài nguyên thế giới, khẳng định.

Tuy nhiên, Chủ tịch Trung Quốc không cung cấp thông tin chi tiết về hướng đi, thời gian chấm dứt tài trợ cho các nhà máy điện than mới ở nước ngoài. Có thể dễ dàng hiểu được điều này, bởi trong nhiều năm qua, Trung Quốc là nhà cung cấp tài chính hàng đầu cho các dự án nhiệt điện than trên khắp thế giới.

Báo cáo của Oil Change International công bố vào tháng 3-2021 cho thấy, nguồn tài chính cho các dự án khai thác than, các nhà máy nhiệt điện than hầu như chỉ được cung cấp bởi các ngân hàng Trung Quốc như Industrial Bank, China Construction Bank, Bank of China, Ngân hàng Công thương Trung Quốc.

Đầu tư nước ngoài của Trung Quốc tập trung ở Đông Nam Á (đặc biệt là Indonesia và Việt Nam) và châu Phi. Ở khu vực châu Phi, Cơ quan Giám sát năng lượng toàn cầu (GEM) liệt kê các ngân hàng Trung Quốc tham gia 4 trong 5 dự án nhiệt điện than đã hoàn thành. Sự hiện diện của Trung Quốc còn rõ ràng hơn khi xem xét các dự án nhiệt điện than đang dự toán kinh phí. Các ngân hàng Trung Quốc hiện hữu phần lớn trong những dự án nhiệt điện than ở Malawi, Kenya, Zambia, Mozambique, Botswana, Zimbabwe.

Trung Quốc chấm dứt đầu tư điện than ở nước ngoài
Khai thác than ở Nam Phi

Vào tháng 5-2020, Trung Quốc đã đồng ý tài trợ cho dự án 4,2 tỉ USD để xây dựng Nhà máy Nhiệt điện than Sengwa khổng lồ ở Zimbabwe, sau đó thông báo rút lui vào tháng 6-2021. Tuyên bố của một trong những nhà quản lý dự án địa phương cho thấy rõ sự phụ thuộc của các nước châu Phi vào tài trợ của Trung Quốc. “Chúng tôi rất vui vì dự án đang được tiến hành, đặc biệt là khi các ngân hàng lớn trên thế giới buộc phải ngừng cấp vốn cho các nhà máy nhiệt điện than. Nhưng thật buồn là giờ đây dự án đã bị dừng lại vì thiếu vốn” - Caleb Dengu, Chủ tịch công ty quản lý Dự án RioZim Energy, thừa nhận.

Một nghịch lý là các ngân hàng Nam Phi, quốc gia phụ thuộc 80% vào than cho nhu cầu điện, đang tham gia xu hướng ngừng tài trợ cho các dự án than và nhiệt điện than. Vài tháng trước, Nedbank cho biết ý định không còn tài trợ cho các dự án than mới kể từ năm 2025. Đây là ngân hàng đầu tiên ở châu Phi bỏ cuộc.

Để đạt được lượng carbon ròng bằng 0 vào năm 2050, Ngân hàng FirstRand của Nam Phi đã công bố quyết định không còn tài trợ cho các mỏ than mới hoặc nhà máy nhiệt điện than mới.

Than không đại diện cho nguồn thu nhập xuất khẩu chính của các quốc gia châu Phi nhưng than lại là nhiên liệu chính tạo ra nguồn điện ở những quốc gia lục địa đen. Ngoài ra, trong khi một số quốc gia như Zambia, Nam Phi hay Zimbabwe phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt năng lượng tái diễn, thì việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới là một trong những giải pháp được cân nhắc, đặc biệt là khi trữ lượng than chưa được khai thác vẫn còn rất lớn.

“Thế giới tiếp tục coi than đá như một loại khoáng sản bẩn. Nhưng chúng tôi tin rằng không thể bỏ mặc nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào do Chúa ban tặng. Chúng tôi cần khai thác nó một cách sạch sẽ hơn vì lợi ích của cộng đồng và quốc gia” - Lefoko Moagi, Bộ trưởng Khoáng sản, Công nghệ xanh và Tài nguyên năng lượng của Botswana, tóm tắt tư duy chung của các quốc gia châu Phi.

Với sự kết thúc của các dự án khai thác than mới, cùng với đó là sự từ bỏ trữ lượng than khổng lồ, bức tranh năng lượng của các nước châu Phi không hoàn toàn ảm đạm. Là một phần của cuộc cách mạng xanh, các quốc gia bị ảnh hưởng bởi việc rút khỏi lĩnh vực than đá thực sự có thể hưởng lợi từ nguồn tài chính mới cho các dự án năng lượng sạch như điện mặt trời và điện gió, những dự án này đã được thực hiện ở quy mô nhỏ ở các quốc gia châu Phi.

Các đại diện Mỹ, Anh, Đức, Pháp... đã bắt đầu các cuộc đàm phán với chính phủ và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp châu Phi. Các cuộc thảo luận sẽ giúp xác định cách các nước giàu có thể hỗ trợ việc chấm dứt phụ thuộc vào than đá. Mỹ và Trung Quốc đã thông báo về các sáng kiến có lợi cho một chiến lược như vậy, rất nhiều hy vọng cho khu vực phía nam châu Phi.

“Trung Quốc sẽ tăng cường hỗ trợ các nước đang phát triển khác để phát triển năng lượng xanh và carbon thấp”, ông Tập Cận Bình nói.

Báo cáo của Oil Change International công bố vào tháng 3-2021 cho thấy, nguồn tài chính cho các dự án khai thác than, các nhà máy nhiệt điện than hầu như chỉ được cung cấp bởi các ngân hàng Trung Quốc như Industrial Bank, China Construction Bank, Bank of China, Ngân hàng Công thương Trung Quốc.

S.Phương

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,700 83,800
AVPL/SJC HCM 81,700 84,000
AVPL/SJC ĐN 81,700 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 74,600 75,800
Nguyên liệu 999 - HN 74,500 75,700
AVPL/SJC Cần Thơ 81,700 83,800
Cập nhật: 17/04/2024 05:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.700 83.700
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.700 83.700
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.700 83.700
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 81.700 83.700
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.700 83.700
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.700 83.700
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 17/04/2024 05:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,455 7,670
Trang sức 99.9 7,445 7,660
NL 99.99 7,450
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,430
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,520 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,520 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,520 7,700
Miếng SJC Thái Bình 8,170 8,380
Miếng SJC Nghệ An 8,170 8,380
Miếng SJC Hà Nội 8,170 8,380
Cập nhật: 17/04/2024 05:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,700 83,700
SJC 5c 81,700 83,720
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,700 83,730
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,700 76,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,700 76,700
Nữ Trang 99.99% 74,600 75,900
Nữ Trang 99% 73,149 75,149
Nữ Trang 68% 49,267 51,767
Nữ Trang 41.7% 29,303 31,803
Cập nhật: 17/04/2024 05:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,749.34 15,908.42 16,418.96
CAD 17,802.06 17,981.88 18,558.97
CHF 26,930.33 27,202.35 28,075.34
CNY 3,412.63 3,447.11 3,558.27
DKK - 3,520.85 3,655.72
EUR 26,070.32 26,333.66 27,500.10
GBP 30,532.92 30,841.34 31,831.11
HKD 3,138.80 3,170.50 3,272.25
INR - 301.01 313.05
JPY 158.47 160.07 167.73
KRW 15.60 17.33 18.90
KWD - 81,601.88 84,865.15
MYR - 5,211.05 5,324.76
NOK - 2,251.43 2,347.05
RUB - 256.70 284.17
SAR - 6,704.80 6,972.92
SEK - 2,263.23 2,359.35
SGD 17,996.27 18,178.05 18,761.43
THB 604.42 671.58 697.30
USD 24,978.00 25,008.00 25,348.00
Cập nhật: 17/04/2024 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,867 15,887 16,487
CAD 17,974 17,984 18,684
CHF 27,174 27,194 28,144
CNY - 3,423 3,563
DKK - 3,508 3,678
EUR #25,989 26,199 27,489
GBP 30,860 30,870 32,040
HKD 3,099 3,109 3,304
JPY 159.23 159.38 168.93
KRW 15.99 16.19 19.99
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,222 2,342
NZD 14,610 14,620 15,200
SEK - 2,232 2,367
SGD 17,963 17,973 18,773
THB 636.15 676.15 704.15
USD #25,015 25,015 25,348
Cập nhật: 17/04/2024 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,030.00 25,048.00 25,348.00
EUR 26,214.00 26,319.00 27,471.00
GBP 30,655.00 30,840.00 31,767.00
HKD 3,156.00 3,169.00 3,269.00
CHF 27,071.00 27,180.00 27,992.00
JPY 159.45 160.09 167.24
AUD 15,862.00 15,926.00 16,400.00
SGD 18,109.00 18,182.00 18,699.00
THB 667.00 670.00 696.00
CAD 17,920.00 17,992.00 18,500.00
NZD 14,570.00 15,049.00
KRW 17.26 18.81
Cập nhật: 17/04/2024 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25080 25130 25330
AUD 16020 16070 16482
CAD 18121 18171 18573
CHF 27468 27518 27930
CNY 0 3457.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26597 26647 27150
GBP 31246 31296 31763
HKD 0 3115 0
JPY 161.58 162.08 166.64
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0323 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14680 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18372 18372 18728
THB 0 649.6 0
TWD 0 777 0
XAU 8150000 8150000 8320000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 17/04/2024 05:00