Thị trường dầu khí: Khủng hoảng & lạc quan

10:17 | 25/01/2022

7,369 lượt xem
|
(PetroTimes) - Thế giới nói chung, nhất là châu Âu, đã phải trải qua cuộc khủng hoảng năng lượng trong năm 2021. Có rất nhiều yếu tố thúc đẩy giá khí đốt ở châu Âu tăng cao. Tuy nhiên, vẫn có nhiều dự báo lạc quan về thị trường dầu khí năm 2022.
Thị trường dầu khí: Khủng hoảng & lạc quan
Giá dầu dự kiến sẽ tăng mạnh trong các năm 2022 và 2023

Nguyên nhân khủng hoảng

Năm 2021, khủng hoảng bao trùm các ngành than, khí, điện ở châu Âu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến giá khí đốt tại châu Âu phá vỡ mọi kỷ lục trước đó.

Đầu tiên, giá khí tăng do liên quan đến cung - cầu và nguồn dự trữ tại nhiều nước trên thế giới, trong khi nguồn năng lượng tái tạo không được bổ sung kịp thời.

Thứ hai, sau một thời gian dài gián đoạn vì đại dịch Covid-19, kinh tế thế giới đột ngột hồi sinh mạnh mẽ, dẫn đến tình trạng tăng mức tiêu thụ năng lượng nhiều hơn so với năm 2020. Trong khi đó, một số nguồn cung gặp khó khăn. Ví dụ, tại Mỹ, quốc gia xuất khẩu khí đốt tự nhiên hàng đầu thế giới, sản lượng bị giảm, chưa thể hồi phục sau trận bão Ida tràn qua vịnh Mexico.

Sau cùng là nguồn dự trữ khí tại châu Âu tương đối thấp do phải trải qua một mùa đông 2020-2021 dài và lạnh. Cuộc khủng hoảng khí đốt trong năm 2021 cho thấy việc dự trữ ngày càng vô cùng quan trọng. Châu Âu đang nhận ra điều đó.

Châu Âu, trong “cơn khát” năng lượng, đã nghi ngờ Nga kìm hãm nguồn cung làm kịch phát tăng giá khí đốt trên thị trường. Trước những chỉ trích này, Tổng thống Nga Vladimir Putin nói rằng, các nước châu Âu đã có những tính toán sai lầm khi giảm bớt một phần trong hợp đồng dài hạn về khí đốt tự nhiên và ưu tiên mua nhiên liệu trên thị trường ngắn hạn (giao ngay) khi giá cả đã tăng vọt.

Vậy nhưng EU đang có kế hoạch về thời hạn kết thúc các hợp đồng nhập khẩu khí đốt tự nhiên dài hạn như một phần của sự chuyển dịch năng lượng của mình - hãng Bloomberg đưa tin. Theo Bloomberg, EU muốn ngăn chặn các hợp đồng như vậy được gia hạn sau năm 2049 như một phần của cuộc “đại tu” các thị trường năng lượng.

Trong bối cảnh đó, châu Á cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng. Giá LNG đang tăng ở châu Á do bị châu Âu hút hàng. “Lục địa già” đang cố gắng lấy nguồn cung từ thị trường châu Á, nơi giá đang tăng, nhưng vẫn rẻ hơn ở châu Âu. Tính đến ngày 22-12-2021, giá LNG tại châu Á tăng 20% do các thương nhân châu Âu tích cực tìm nguồn cung. Tại Trung Quốc, tình trạng cắt điện do thiếu than, khí diễn ra triền miên, đe dọa nền kinh tế.

Châu Mỹ cũng không thoát khỏi tình trạng đó. Mỹ đang chịu cảnh giá nhiên liệu tăng cao, khiến lạm phát tăng vọt. Giá xăng dầu tại Mỹ đã tăng hơn 60% trong năm 2021. Để hạ giá nhiên liệu, chính quyền Tổng thống Joe Biden phải cùng Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc đồng loạt giải phóng kho dự trữ dầu thô chiến lược.

Thị trường dầu khí: Khủng hoảng & lạc quan
Giá khí tăng do liên quan đến cung - cầu và nguồn dự trữ tại nhiều nước trên thế giới

Dự báo lạc quan

Liên quan đến dự báo nhu cầu và giá dầu trong năm 2022, có nhiều nhận định khác nhau.

Theo Goldman Sach, nhờ nhu cầu tăng cao, giá dầu dự kiến sẽ tăng mạnh trong năm 2022 và 2023 do nhu cầu sử dụng nhiên liệu tăng lên bất chấp quá trình chuyển đổi năng lượng hay sự xuất hiện của biến thể Covid-19 mới cuối năm 2021 đã làm dấy lên lo ngại về nhu cầu tiếp tục giảm do dịch bệnh bùng phát trở lại. Nhưng, dường như điều đó không có tác động đáng kể. Do đó, các ngân hàng Mỹ vẫn dự báo nhu cầu sẽ tăng lên.

Goldman Sachs cũng lưu ý rằng, “cơn sốt” đối với các phương thức vận tải bằng điện đã tác động không nhiều đến nhu cầu dầu toàn cầu. 6 triệu xe điện chỉ có tác dụng giảm tiêu thụ 100.000 thùng dầu mỗi ngày. Do đó, nhu cầu dầu sẽ tiếp tục tăng trong vài năm nữa. Giá dầu sẽ đạt mức lịch sử trong khoảng thời gian từ năm 2022 đến năm 2023. Thậm chí, không có sự sụt giảm đáng kể nào được dự đoán trước khi kết thúc thập niên này. Báo cáo của Goldman Sachs trấn an các nước thành viên Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh - những nước đang lo ngại nhu cầu sẽ tiếp tục sụp đổ.

Trong báo cáo tháng 12-2021, Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) viết rằng: Sự xuất hiện của biến thể Omicron vào cuối tháng 11-2021 đã gây ra một đợt bán tháo mạnh mẽ đối với dầu. Nhưng sự bi quan ban đầu giờ đây đã nhường chỗ cho một phản ứng có tính đo lường hơn. Sự gia tăng các biến thể mới của Covid-19 sẽ tạm thời làm chậm lại sự phục hồi của nhu cầu về dầu, nhưng không làm rối loạn sự phục hồi này. Các biện pháp ngăn chặn mới được áp dụng để hạn chế sự lây lan của virus có tác động vừa phải hơn đến nền kinh tế so với các đợt bùng phát trước đây, đặc biệt là do các chiến dịch tiêm chủng vắc-xin rộng lớn, hiệu quả cao.

Ngoài ra, IEA cũng hạ dự báo nhu cầu dầu toàn cầu trung bình 100.000 thùng/ngày trong năm 2022 do các hạn chế mới được áp dụng đối với du lịch quốc tế. IEA cho biết, dự kiến nhu cầu dầu toàn cầu sẽ chỉ tăng thêm 3,3 triệu thùng/ngày vào năm 2022, lên mức trước đại dịch, tức 99,5 triệu thùng/ngày.

Vào đầu tháng 12-2021, OPEC và các đồng minh đã đồng ý tiếp tục tăng sản lượng vào tháng 1-2022, bất chấp những bất ổn kinh tế xung quanh biến thể Omicron. IEA dự báo: Xu hướng tăng nguồn cung có thể dẫn đến dư cung 1,7 triệu thùng/ngày trong quý đầu tiên của năm 2022 và 2 triệu thùng/ngày trong quý thứ hai. Các kho dự trữ hydrocarbon sẽ được lấp đầy vào năm 2022. Trong năm 2022, giá dầu WTI sẽ giảm 1,86 USD/thùng, đạt mức trung bình 66,42 USD/thùng. Dầu Brent sẽ giảm xuống 70,05 USD/thùng.

IEA dự báo: Xu hướng tăng nguồn cung có thể dẫn đến dư cung 1,7 triệu thùng/ngày trong quý đầu tiên của năm 2022 và 2 triệu thùng/ngày trong quý thứ hai. IEA dự báo, trong năm 2022, giá dầu WTI sẽ giảm 1,86 USD/thùng, đạt mức trung bình 66,42 USD/thùng. Dầu Brent sẽ giảm xuống 70,05 USD/thùng.

S.Phương

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 145,000 148,000
Hà Nội - PNJ 145,000 148,000
Đà Nẵng - PNJ 145,000 148,000
Miền Tây - PNJ 145,000 148,000
Tây Nguyên - PNJ 145,000 148,000
Đông Nam Bộ - PNJ 145,000 148,000
Cập nhật: 05/11/2025 06:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,620 14,820
Miếng SJC Nghệ An 14,620 14,820
Miếng SJC Thái Bình 14,620 14,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,520 14,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,520 14,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,520 14,820
NL 99.99 13,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,850
Trang sức 99.9 13,840 14,810
Trang sức 99.99 13,850 14,820
Cập nhật: 05/11/2025 06:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,462 14,822
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,462 14,823
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,434 1,459
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,434 146
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,419 1,449
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,965 143,465
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,336 108,836
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,192 98,692
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 81,048 88,548
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,135 84,635
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,079 60,579
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,462 1,482
Cập nhật: 05/11/2025 06:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16559 16827 17405
CAD 18167 18443 19059
CHF 31901 32282 32931
CNY 0 3470 3830
EUR 29649 29920 30947
GBP 33593 33981 34906
HKD 0 3255 3456
JPY 164 168 175
KRW 0 17 19
NZD 0 14585 15175
SGD 19622 19903 20427
THB 724 788 841
USD (1,2) 26054 0 0
USD (5,10,20) 26095 0 0
USD (50,100) 26124 26143 26349
Cập nhật: 05/11/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,124 26,124 26,349
USD(1-2-5) 25,080 - -
USD(10-20) 25,080 - -
EUR 29,899 29,923 31,062
JPY 167.52 167.82 174.85
GBP 34,162 34,254 35,057
AUD 16,950 17,011 17,459
CAD 18,416 18,475 19,005
CHF 32,217 32,317 33,000
SGD 19,784 19,846 20,463
CNY - 3,648 3,745
HKD 3,335 3,345 3,428
KRW 16.94 17.67 18.97
THB 773.17 782.72 833.53
NZD 14,697 14,833 15,186
SEK - 2,733 2,813
DKK - 4,001 4,117
NOK - 2,557 2,636
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,867.93 - 6,582.97
TWD 771.03 - 928.51
SAR - 6,919.74 7,244.92
KWD - 83,571 88,446
Cập nhật: 05/11/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,125 26,129 26,349
EUR 29,686 29,805 30,934
GBP 33,890 34,026 35,007
HKD 3,317 3,330 3,437
CHF 31,916 32,044 32,938
JPY 166.54 167.21 174.19
AUD 16,847 16,915 17,463
SGD 19,790 19,869 20,407
THB 786 789 825
CAD 18,359 18,433 18,967
NZD 14,726 15,225
KRW 17.60 19.26
Cập nhật: 05/11/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26171 26171 26349
AUD 16740 16840 17768
CAD 18350 18450 19466
CHF 32138 32168 33750
CNY 0 3659.2 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29817 29847 31570
GBP 33865 33915 35678
HKD 0 3390 0
JPY 168 168.5 179.01
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14698 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19774 19904 20632
THB 0 753.3 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14620000 14620000 14820000
SBJ 13000000 13000000 14820000
Cập nhật: 05/11/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,154 26,204 26,349
USD20 26,154 26,204 26,349
USD1 23,841 26,204 26,349
AUD 16,842 16,942 18,057
EUR 30,004 30,004 31,318
CAD 18,303 18,403 19,715
SGD 19,865 20,015 21,100
JPY 168.21 169.71 174.29
GBP 34,129 34,279 35,150
XAU 14,618,000 0 14,822,000
CNY 0 3,544 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 2
Cập nhật: 05/11/2025 06:00