Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 53

Tăng cường hợp tác để cải thiện dòng chảy thương mại và đầu tư

18:45 | 13/09/2021

51 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Ngày 13/9, trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 53, các Hội nghị tham vấn cấp Bộ trưởng Kinh tế giữa ASEAN và các nước đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Thụy Sĩ, Cộng Ba đã lần lượt diễn ra theo hình thức trực tuyến với sự tham dự của Bộ trưởng Kinh tế 10 nước thành viên ASEAN và Bộ trưởng Kinh tế của từng nước đối tác.

Đoàn Việt Nam tham dự các Hội nghị gồm đại diện các Bộ: Công Thương, Ngoại giao, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư do Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên và Thứ trưởng Công Thương Trần Quốc Khánh dẫn đầu.

Tăng cường hợp tác để cải thiện dòng chảy thương mại và đầu tư
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh tham dự Hội nghị.

Tại Hội nghị, Bộ trưởng các nước ASEAN và đối tác đã trao đổi về tình hình kinh tế khu vực và toàn cầu trong thời gian qua, những dự đoán cho kinh tế toàn cầu năm 2022 và dành thời gian chia sẻ thông tin, cập nhật tình hình triển khai các biện pháp đối phó với dịch bệnh Covid-19 của nước mình đồng thời ghi nhận những nỗ lực chung trong khu vực nhằm thúc đẩy phục hồi kinh tế sau đại dịch.

Về hợp tác kinh tế ASEAN-Trung Quốc, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ đối tác đối thoại ASEAN-Trung Quốc (1991-2021), các Bộ trưởng hoan nghênh Tuyên bố chung của các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Trung Quốc về tăng cường hợp tác kinh và thương mại cũng như các hoạt động khác nhằm kỷ niệm 30 quan hệ ASEAN-Trung Quốc. Các Bộ trưởng đánh giá cao những thành tựu trong hợp tác kinh tế, thương mại mà ASEAN và Trung Quốc đã đạt được trong suốt quá trình hình thành và phát triển quan hệ hợp tác giữa hai bên và mong muốn ASEAN và Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác hơn nữa trong thời gian tới, đặc biệt tập trung vào việc nâng cấp Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc theo hướng tạo thuận lợi hơn cho thương mại, tăng cường chuỗi cung ứng khu vực nhằm khắc phục những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19.

Về hợp tác kinh tế ASEAN-Hàn Quốc, trước những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 đối với nền kinh tế khu vực và toàn cầu, các Bộ trưởng nhấn mạnh rằng việc duy trì mở của thị trường thương mại và đầu tư, đảm bảo sự kết nối chuỗi cung ứng là chìa khóa trong việc khắc phục những thách thức đặt ra bởi đại dịch Covid-19, trên cơ sở đó, Hội nghị đã thảo luận định hướng đàm phán nâng cấp Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Hàn Quốc.

Đồng thời, Hội nghị nhất trí tăng cường hợp tác để thực hiện các sáng kiến giữa ASEAN và Hàn Quốc trong việc giảm thiểu các tác động kinh tế của đại dịch và phục hồi bền vững sau đại dịch. Ngoài ra, các Bộ trưởng cũng ghi nhận các hoạt động và chương trình hợp tác của Hội đồng Kinh doanh ASEAN-Hàn Quốc được triển khai trong thời gian qua nhằm hỗ trợ doanh nghiệp hai bên trong bối cảnh đại dịch, trong đó kiến nghị một số sáng kiến, đề xuất mới về hợp tác trong lĩnh vực thương mại kỹ thuật số, giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu.

Về hợp tác kinh tế ASEAN-Thụy Sĩ, các Bộ trưởng hoan nghênh những kết quả trong hoạt động thương mại và đầu tư giữa ASEAN và Thụy Sĩ thời gian qua dù gặp phải nhiều thách thức của đại dịch Covid-19. Các Bộ trưởng kêu gọi những đoàn kết và nỗ lực giữa các bên để chống lại đại dịch và đẩy nhanh quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch thông qua việc đảm bảo duy trì sự hoạt động của chuỗi cung ứng, tiếp tục theo đuổi các chính sách kinh tế mở và minh bạch trên cơ sở hệ thống thương mại đa phương của WTO...

Tăng cường hợp tác để cải thiện dòng chảy thương mại và đầu tư
Đại diện Chính phủ Nhật Bản phát biểu tại Hội nghị.

Về hợp tác kinh tế ASEAN-Cộng Ba (bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), các Bộ trưởng ghi nhận và hoan nghênh những tiến bộ đạt được trong việc thực hiện Kế hoạch Hành động ASEAN Cộng Ba về giảm thiểu tác động kinh tế của đại dịch Covid-19 trên cơ sở triển khai các hoạt động nhằm đảm bảo kết nối chuỗi cung ứng và tăng cường khả năng phục hồi kinh tế của khu vực.

Các Bộ trưởng đã thông qua Chương trình làm việc về Hợp tác kinh tế giai đoạn 2021-2022 và khuyến khích các nước tăng cường hơn nữa hợp tác để cải thiện dòng chảy thương mại và đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, tiếp cận chuyển đổi kỹ thuật số, tạo thuận lợi thương mại, kết nối chuỗi cung ứng, v.v…

Ngoài ra, các Bộ trưởng cũng hoan nghênh việc ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) trong năm Chủ tịch ASEAN của Việt Nam 2020 và mong muốn đưa Hiệp định vào thực thi vào đầu năm 2022 để giúp củng cố chuỗi cung ứng trong khu vực, góp phần vào quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19.

Tăng cường hợp tác để cải thiện dòng chảy thương mại và đầu tư
Đại biểu đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị.

Việt Nam đã tích cực đóng góp ý kiến về định hướng hợp tác kinh tế giữa ASEAN với các đối tác ngoại khối trong thời gian tới nhằm mục tiêu đạt được những lợi ích thiết thực cho Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung như củng cố chuỗi cung ứng khu vực và phát triển kinh tế bền vững trong bối cảnh nền kinh tế giới đang có nhiều thay đổi và chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19.

Các Hội nghị trên đã diễn ra và kết thúc tốt đẹp góp phần vào thành công chung của chuỗi các sự kiện trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Kinh bế ASEAN lần thứ 53 và các hội nghị liên quan. Các Hội nghị tham vấn giữa ASEAN và các đối tác khác như Hoa Kỳ, Hồng Kông-Trung Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand... sẽ được tiếp tục diễn ra trong 2 ngày còn lại từ 14-15 tháng 9 năm 2021.

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▲1250K 75,450 ▲1250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▲1250K 75,350 ▲1250K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
TPHCM - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Hà Nội - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Hà Nội - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Đà Nẵng - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Miền Tây - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 ▲800K 74.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 ▲600K 56.030 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 ▲460K 43.730 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 ▲330K 31.140 ▲330K
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 ▲80K 7,590 ▲80K
Trang sức 99.9 7,375 ▲80K 7,580 ▲80K
NL 99.99 7,380 ▲80K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 ▲700K 75,500 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 ▲700K 75,600 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 73,700 ▲800K 74,700 ▲700K
Nữ Trang 99% 71,960 ▲693K 73,960 ▲693K
Nữ Trang 68% 48,451 ▲476K 50,951 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 28,803 ▲292K 31,303 ▲292K
Cập nhật: 26/04/2024 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,238 16,258 16,858
CAD 18,236 18,246 18,946
CHF 27,248 27,268 28,218
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,552 3,722
EUR #26,302 26,512 27,802
GBP 31,142 31,152 32,322
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 157.31 157.46 167.01
KRW 16.21 16.41 20.21
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,221 2,341
NZD 14,812 14,822 15,402
SEK - 2,247 2,382
SGD 18,051 18,061 18,861
THB 632.98 672.98 700.98
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 20:00