Sự thật về vụ án Nguyễn Thị Bạch Tuyết (Kỳ 1)

09:53 | 27/10/2015

3,237 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ngày 22/10, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 8678/VPCP-V.I gửi Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) Tối cao để xem xét, giải quyết vụ truy tố bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết.
su that ve vu an nguyen thi bach tuyet ky 1
Bị can Nguyễn Thị Bạch Tuyết.

Công văn có nội dung liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết, nguyên Kế toán trưởng Công ty TNHH L&M Foundation Specianlist Việt Nam (Công ty L&M Việt Nam) bị truy tố, bắt tạm giam trên 650 ngày, có dấu hiệu oan sai.

Văn phòng Chính phủ chuyển phản ánh trên đến VKSND Tối cao để xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật và đề nghị thông báo kết quả cho Văn phòng Chính phủ biết để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Liên quan đến vụ án Nguyễn Thị Bạch Tuyết bị truy tố tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, ngày 7/10, TAND TP HCM tiếp tục trả hồ sơ vụ án cho VKSND TP HCM để "làm rõ căn cứ truy tố" bà Tuyết.

Để độc giả hiểu rõ hơn bản chất của vụ việc, Báo điện tử PetroTimes sẽ khởi đăng loạt bài liên quan đến vụ án này:

Bài 1: Nghi vấn về một vụ 'rửa tiền' núp bóng 'đơn tố cáo'

Bản cáo trạng khó hiểu

Cáo trạng khẳng định, từ ngày 1/2/2010 đến 31/3/2012, bị can Nguyễn Thị Bạch Tuyết với vị trí Kế toán trưởng Công ty L&M đã 51 lần fax và scan lệnh chuyển tiền của Công ty L&M Việt Nam từ 2 Ngân hàng OCBC và Ngân hàng UOB vào tài khoản số 086.10.00082.002 của Công ty Đại Hồng Tùng do Tuyết là người đại diện theo pháp luật và là chủ tài khoản để chiếm đoạt hơn 12 tỷ đồng của Công ty L&M Việt Nam…

Bị can Tuyết đã gửi đơn đến TAND TP HCM để kêu oan do các chứng cứ có trong hồ sơ đều không thể hiện bị can đã gian dối đối với Công ty TNHH L&M Việt Nam cũng như với ông Wong Kong Hee (Chủ tịch Công ty) và ông Yee Lip Chee (Tổng giám đốc). Bị can Tuyết cho rằng mình không có âm mưu chiếm đoạt tài sản củaCông ty L&M Việt Nam.

Tháng 4/2010, bà Tuyết nộp đơn và hồ sơ xin việc vào Công ty L&M Việt Nam có ghi rõ: “Từ tháng 8/2005 đến tháng 6/2008 làm việc tại Công ty Đại Hồng Tùng với chức danh kế toán trưởng”.

Ông Hee, Chủ tịch của Công ty L&M Việt Nam xác nhận trong lời khai với cơ quan Cảnh sát điều tra: “Nhân viên công ty có in cho tôi đơn kèm theo lý lịch cá nhân của chị Tuyết, xắp xếp phỏng vấn chị Tuyết vào lúc 12h ngày 02/12/2009”.

Ngày 1/1/2010, bị can Tuyết được ông Chee ký hợp đồng lao động với mức lương thử việc 18 triệu đồng.

Ông Hee và Chee đều biết bà Tuyết là kế toán của Công ty Đại Hồng Tùng. Bị can Tuyết không đồng tình với cáo buộc của VKSND TP HCM khi kết luận: “Ông Wong Kong Hee và Yee Lip Chee không biết Công ty Đại Hồng Tùng là công ty nào, mối liên hệ giữa công ty này và Nguyễn Thị Bạch Tuyết.

Ông Hee và ông Chee cũng thừa nhận đã ký vào các phiếu yêu cầu chuyển tiền ngày 30/1/2010 cho Công ty Đại Hồng Tùng số tiền 556.706.842 đồng; phiếu yêu cầu chuyển tiền ngày 1/2/2010 chuyển cho Công ty Đại Hồng Tùng số tiền 509.040.128 đồng; phiếu yêu cầu chuyển tiền ngày 17/3/2010 chuyển cho Công ty Đại Hồng Tùng số tiền là 493.275.494 đồng.

Lời khai của ông Chee, Hee và phía Ngân hàng được cam kết trong hợp đồng giữa Công ty L&M Việt Nam và Ngân hàng: “Mỗi lần chuyển số tiền nhiều hơn 400.000.000 đồng (hoặc trên 20.000USD) thì phải có chữ ký của cả 2 ông này”. Ngân hàng sẽ điện thoại cho ông Hee hoặc Chee để xác nhận lại trước khi chuyển tiền đi.

Quá trình làm việc với cơ quan điều tra, cả 2 ông đều phủ nhận việc ký tên trên các phiếu chuyển tiền. Ông Hee còn thừa nhận, các phiếu yêu cầu chuyển tiền này không phải do bà Tuyết chuyển đến cho mình ký mà là người khác.

Tuy nhiên, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP HCM và VKS TP HCM vẫn giữ nguyên quan điểm để buộc tội bị can Nguyễn Thị Bạch Tuyết “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Ông Chee còn thừa nhận đã chính tay ký vào 25 phiếu chuyển tiền, mỗi phiếu trị giá 240 triệu đồng của Công ty L&M Việt Nam cho Công ty Đại Hồng Tùng qua Ngân hàng OCBC. Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật Khoa học hình sự Công an TP HCM và kết luận giám định của Phân Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an tại TP HCM cũng kết luận 25 chữ ký do Chee ký trực tiếp trên phiếu chuyển tiền, không có việc giả mạo.

Trong đó, 5 phiếu chuyển tiền gốc đóng dấu chữ ký của ông Yee, 12 phiếu chuyển tiền do cơ quan điều tra yêu cầu giám định là chữ ký photo, 4 lệnh chuyển tiền là chữ ký photo mờ nhòe nên không giám định được.

Trong bản kết luận điều tra và cáo trạng cũng không đề cập đến việc xác định ai đã đóng dấu chữ ký “giả mạo” vào 5 phiếu chuyển tiền. Diễn biến của việc đóng dấu giả và cũng nhân chứng nhìn thấy bà Tuyết sử dụng con dấu giả này để đóng vào 5 phiếu chuyển tiền.

Với những căn cứ như trên, VKS vẫn ra quyết định truy tố bị can Bạch Tuyết: “bằng thủ đoạn gian dối dùng dấu chữ ký trên 51 chứng từ lệnh chuyển tiền bằng bản fax và scan”, “chiếm đoạt tổng cộng: 12.747.022.464 đồng của Công ty TNHH L&M Việt Nam”.

“Điểm mờ” trong vụ án

Ông Chee, ông Hee thừa nhận ký 25 lần chuyển tiền với số tiền lên đến nhiều tỷ đồng và có ít nhất 3 lần Ngân hàng An Bình đã gọi điện xác nhận nội dung thì không thể nói cả 2 ông không biết sự việc chuyển tiền vào Công ty Đại Hồng Tùng.

Bản cam kết ngày 5/1/2010 do ông Chee ký tên và đóng dấu không được cơ quan Cảnh sát điều tra đưa vào hồ sơ để xem xét: “1. Công ty L&M Việt Nam đã và sẽ tiếp tục nhập một số lượng máy móc thiết bị cũ về Việt Nam trị giá khoảng 2 triệu USD của Công ty mẹ tại Singapo, để hợp thức hóa việc tăng vốn đầu tư nhưng Công ty L&M Việt Nam phải trả cho Công ty mẹ bằng tiền mặt”.

su that ve vu an nguyen thi bach tuyet ky 1
Ông Yee Lip Chee.

Ở phần 2 và 3 của Bản cam kết này còn có nội dung: “2. Ông Yee Lip Chee sẽ chuyển khoản số tiền cần thiết đến tài khoản số 086.10.00082.002 tại Ngân hàng An Bình do bà Tuyết đứng tên; 3. Theo đó, bà Tuyết sẽ được hưởng một khoản tiền tương ứng 3% tổng số tiền đã chuyển vào tài khoản nêu trên theo từng lần chuyển khoản…”.

Qua 2 lần trưng cầu giám định của cơ quan chức năng đều xác định: “Bản cam kết ngày 5/1/2010 là chữ ký trực tiếp của ông Yee Lip Chee và đóng dấu đỏ của Công ty TNHH L&M Việt Nam cùng dấu tên của ông Yee Lip Chee. Không phát hiện thấy dấu vết tẩy xóa sửa chữa trên tài liệu ký hiệu A59, …..chữ có nội dung “Tôi cam kết thực hiện theo thỏa thuận đã ký giữa hai bên,…ngày….tháng….năm (ký tên đóng dấu) là không được soạn thảo cùng font chữ so với các nội dung còn lại trên tài liệu ký hiệu A59”.

Kết quả trưng cầu giám định đã khẳng định Bản cam kết nêu trên không có bằng chứng được làm giả. Thế nhưng, Kết luận điều tra số 319-25/KLĐT-PC46 (Đ9), của cơ quan Cảnh sát điều tra đã quy kết: "Nội dung thể hiện trong Bản cam kết ngày 5/01/2010, giữa Nguyễn Thị Bạch Tuyết và ông Yee Lip Chee (ký hiệu A59) là văn bản giả mạo".

Trong cáo trạng của Viện Kiểm sát số 393/CT2-VKS-P1 ngày 5/9/2014 tại phần đầu trang 6 cũng phủ nhận kết quả giám định: “Ngày 30/1/2010, Tuyết mới mở tài khoản số 086.10.00082.002 tại Ngân hàng TMCP An Bình – Phòng giao dịch Nguyễn Văn Trỗi. Ngày 5/1/2010 là ngày Yee Lip Chee ký bản cam kết thì làm sao biết được trước số tài khoản của Tuyết mở ngày 30/1/2010 để ghi vào trong bản cam kết ngày 5/01/2010”.

Bị can Tuyết đã khai tại Cơ quan điều tra, ông Yee đưa cho bà Tuyết bản cam kết này thì chưa ghi ngày, tháng, năm. Tuyết có hỏi thì ông Yee trả lời ghi ngày thỏa thuận trong văn bản là ngày 5/1/2010 và Tuyết đã viết : “TP HCM ngày 5 tháng 1 năm 2010” vào bản cam kết”.

Lời khai của bị can Tuyến hoàn toàn phù hợp với kết quả của 2 cấp giám định nhưng không được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP HCM và VKSND TP HCM xem xét để đưa vào kết luận điều tra và cáo trạng. Ông Chee (Tổng giám đốc), ông Hee (Chủ tịch HĐTV) đều biết rõ vụ việc ngay từ đầu và đã tham gia vào quá trình chuyển tiền.

Bị can Tuyết có vai trò Kế toán trưởng và chỉ làm theo sự chỉ đạo của cấp trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP HCM và VKSND TP HCM khởi tố, truy tố Nguyễn Thị Bạch Tuyết về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" liệu có đúng người, đúng tội?

Diễn biến vụ án:

- Ngày 1/8/2013, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP HCM ra Quyết định số 319-01 khởi tố vụ “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Công ty TNHH L&M Foundation Specianlist Việt Nam (Công ty L&M Việt Nam) trụ sở tại quận Tân Bình (TP HCM).

- Ngày 1/8/2013, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP HCM ban hành Quyết định khởi tố bị can số 635-50 đối với bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết, nguyên Kế toán trưởng Công ty L&M Việt Nam về hành vi “Giả mạo hồ sơ, tài liệu, chứng từ để chuyển tiền từ tài khoản của Công ty L&M Việt Nam sang tài khoản Công ty TNHH MTV Đại Hồng Tùng (Công ty Đại Hồng Tùng), sau đó rút ra chiếm đoạt một số tiền lớn của Công ty L&M Việt Nam”.

- Ngày 29/7/2014, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP HCM ban hành Kết luận điều tra số 319-25/KLĐT-PC46 (Đ9) do Thượng tá Cao Xuân Lợi, Phó thủ trưởng Cơ quan CSĐT ký. Kết luận của Công an TP HCM nhận định hành vi sai phạm của bị can Nguyễn Thị Bạch Tuyết đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, được quy định tại Điều 139, Bộ luật Hình sự… 

- Ngày 5/9/2014, VKSND TP HCM đã ban hành Cáo trạng số 393/CTr-VKS-P1 do Phó Viện trưởng Nguyễn Nhật Nam ký với nội dung truy tố Nguyễn Thị Bạch Tuyết ra trước Tòa án nhân dân TP.HCM để xét xử về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4, Điều 139 Bộ luật hình sự.

- Ngày 29/5/2015, TAND TP HCM đưa vụ án ra xét xử và quyết định trả lại hồ sơ để Viện KSND và Cơ quan Cảnh sát điều tra bổ sung chứng cứ buộc tội.

(Còn tiếp) 

Nhóm phóng viên PetroTimes