Sự thật cay đắng ở Agribank

13:00 | 28/01/2014

11,134 lượt xem
|
Thanh tra Chính phủ đã chỉ ra một loạt khuyết điểm, vi phạm lớn tại ngân hàng này.

Cần phải xem lại hiệu quả hoạt động của Agribank.

Tại Thông báo Kết luận Thanh tra số 188/TB-TTCP, Thanh tra Chính phủ đã nêu, hoạt động tín dụng của Agribank để xảy ra nhiều khuyết điểm, vi phạm trong huy động vốn và cho vay, bao gồm các hoạt động bảo lãnh và xử lý rủi ro. Đáng chú ý, là ngân hàng thương mại lớn Nhà nước với quy mô lớn nhất trong hệ thống các tổ chức tín dụng, đúng ra, Agribank phải là ngân hàng tiên phong thực hiện các chủ trương, chính sách, giữ vai trò dẫn dắt thị trường, tuy nhiên, Agribank lại có những vi phạm quy về quy định về huy động và cho vay vàng trên thị trường liên ngân hàng với số lượng lớn. Đặc biệt là khi Ngân hàng Nhà nước có quy định cấm huy động và cho vay vàng thì hoạt động này vẫn được Agribank thực hiện.

Hoạt động đầu tư tài chính của Agribank cũng gây những thiệt hại không nhỏ, thậm chí là có nguy cơ mất vốn hoặc thiệt hại rất lớn. Điển hình là 2 Công ty Cho thuê tài chính (ALC I, ALC II).

Ngoài ra, Thanh tra Chính phủ cũng chỉ ra nhiều vi phạm, khuyết điểm trong quá trình xác định giá trị Quyền sử dụng đất khi cổ phần hoá tại 2 doanh nghiệp trực thuộc Agribank; quản lý và thực hiện đầu tư xây dựng còn có khuyết điểm, vi phạm; buông lỏng quản lý để xay ra vụ việc vi phạm pháp luật tại Trung tâm Công nghệ thông tin.

Tại Thông báo trên, Thanh tra Chính phủ cũng kiến nghị chuyển Cơ quan Điều tra (Bộ Công an) 15 hồ sơ, vụ việc có dấu hiệu cấu thành tội phạm, trong đó đã chuyển vụ việc của Công ty liên doanh Lifepro Việt Nam và nhóm khách hàng liên quan sang Bộ Công an để khởi tố.

Với những vi phạm, khuyết điểm như trên, dư luận xã hội đang đặt câu hỏi: Phải chăng chuyện vi phạm, sai phạm ở Agribank đã trở thành hệ thống bởi có một thực tế, trong mấy năm gần đây, số lượng cán bộ, lãnh đạo của ngân hàng này bị truy cứu trách nhiệm trước pháp luật là không hề ít. Và nếu tập hợp đội ngũ này lại, nhiều người đã dựng lên được hẳn một bộ máy khá kiện toàn cho một Agribank trong... nhà tù!

Ông Phạm Thanh Tân - nguyên Tổng giám đốc Agribank.

Chúng ta có thể kể tới một số trường hợp cụ thể như:

Ngày 23/1/2013, tại "Hội nghị triển khai thi hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng và Nghị quyết của Quốc hội về công tác phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm" do Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức, Đại tướng Trần Đại Quang – Bộ Trưởng Bộ Công an đã thông báo việc khởi tố, bắt tạm giam ông Phạm Thanh Tân - nguyên Tổng giám đốc Agribank về hành vi “Thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Theo đó, ông Phạm Thanh Tân bị khởi tố là vì những hành vi liên quan đến trách nhiệm điều hành công việc của ông. Trong thời gian ông Tân làm "tư lệnh", Agribank đã từ một trong những ngân hàng có vị thế lớn nhất và mạng lưới trải rộng nhất ở Việt Nam đã trở nên yếu thế trên thị trường tài chính - ngân hàng.

Trước đó, chỉ tính riêng trong năm 2012, Agribank cũng đã có gần chục cán bộ rơi vào vòng lao lý, ví như: Ngày 9/5/2012, Phòng Cảnh sát kinh tế, Công an thành phố Hà Nội thi hành lệnh bắt, khám xét khẩn cấp đối với Nguyễn Tuấn Anh (ở phường Vạn Phúc, quận Hà Đông), nguyên Phó giám đốc chi nhánh Công ty vàng Agribank Hà Đông, về hành vi “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản”; Ngày 18/5/2012, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam ông Đỗ Đức Hưng (56 tuổi, nguyên giám đốc chi nhánh Hồng Hà, thuộc ngân hàng Agribank) về hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ.

Ông Hưng được cho là đã lợi dụng quyền hạn ký 8 bảo lãnh thanh toán không có hồ sơ, không hạch toán, không thu phí bảo lãnh cho một số công ty, với tổng số tiền hơn 345 tỉ đồng; Tháng 10/2012, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã tống đạt quyết định khởi tố bị can và thực hiện lệnh bắt tạm giam đối với Hồ Đăng Trung (ở phường 7, quận 5, TP Hồ Chí Minh); Hồ Văn Long (ở phường 12, quận 6, TP Hồ Chí Minh). Trung nguyên là giám đốc, còn Long là Trưởng phòng tín dụng Agribank chi nhánh 6, về hành vi “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”; Ngày 26/11/2012, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an tống đạt quyết định khởi tố bị can, thực hiện lệnh bắt tạm giam đối với bà Nguyễn Thị Hoàng Oanh - Nguyên giám đốc chi nhánh Agribank Bến Thành (TP Hồ Chí Minh)...

Mới đây, ngay những ngày đầu năm 2014, ông Kiều Trọng Tuyến – nguyên Phó Tổng giám đốc Agribank cũng đã bị Cục cảnh sát Điều tra tội phạm về kinh tế và quản lý chức vụ (C46 - Bộ Công an) bắt tạm giam. Và thông tin ban đầu thì ông Tuyến bị khởi tố vì hành vi “Thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.

Đó chỉ là một số ít trong rất nhiều trường hợp cán bộ, lãnh đạo của Agribank bị bắt, bị khởi tố vì cái gọi là thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, cố ý làm trái... gây thiệt hại tài sản của Nhà nước. Câu hỏi đặt ra là phải chăng vì Agribank được Đảng, Chính phủ giao nhiệm vụ là tổ chức tín dụng chủ lực thực hiện, triển khai các chương trình, mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn. Và vì vậy, những cán bộ, lãnh đạo trên của Agribank đã tự cho mình cái quyền được hưởng thụ, được đòi hỏi. Nhưng liệu rằng họ có tự đặt câu hỏi: Trong những năm qua, Agribank đã đóng góp được gì cho nền kinh tế, đã giúp nền nông nghiệp nước nhà đi lên như thế nào?

Lại nữa, là một ngân hàng thương mại Nhà nước có quy mô lớn nhất trong hệ thống tín dụng, đáng nhẽ ra Agribank phải là công cụ đắc lực giúp Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước triển khai các chủ trương, chính sách điều hành thị trường tài chính, tiền tệ nhưng rồi sao, Agribank lại là ngân hàng tiên phong đi ngược lại không ít chủ trương, chính sách đó. Với một tổ chức tín dụng, một ngân hàng thương mại Nhà nước mà Agribank lại làm những việc như vậy thì có đáng để mà tồn tại hay không?

Tái cơ cấu nền kinh tế với một trong những nội dung lớn là tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, vậy nên, nếu Agribank vẫn giữ cung cách làm việc thiếu trách nhiệm như vậy thì cần phải xem xét sự tồn tại của ngân hàng này!

Thanh Ngọc

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 143,800 146,800
Hà Nội - PNJ 143,800 146,800
Đà Nẵng - PNJ 143,800 146,800
Miền Tây - PNJ 143,800 146,800
Tây Nguyên - PNJ 143,800 146,800
Đông Nam Bộ - PNJ 143,800 146,800
Cập nhật: 06/11/2025 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,580 ▲30K 14,780 ▲30K
Miếng SJC Nghệ An 14,580 ▲30K 14,780 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 14,580 ▲30K 14,780 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,480 ▲30K 14,780 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,480 ▲30K 14,780 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,480 ▲30K 14,780 ▲30K
NL 99.99 13,810 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,810 ▲30K
Trang sức 99.9 14,070 ▲30K 14,670 ▲30K
Trang sức 99.99 14,080 ▲30K 14,680 ▲30K
Cập nhật: 06/11/2025 14:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,458 ▲3K 14,782 ▲30K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,458 ▲3K 14,783 ▲30K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,431 ▲4K 1,456 ▲4K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,431 ▲4K 1,457 ▲4K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,416 ▲4K 1,446 ▲4K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,668 ▲396K 143,168 ▲396K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,111 ▲300K 108,611 ▲300K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 90,988 ▲272K 98,488 ▲272K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,865 ▲244K 88,365 ▲244K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 7,696 ▼69031K 8,446 ▼75781K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,954 ▲167K 60,454 ▲167K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Cập nhật: 06/11/2025 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16601 16869 17443
CAD 18135 18410 19022
CHF 31873 32254 32902
CNY 0 3470 3830
EUR 29664 29936 30958
GBP 33580 33968 34907
HKD 0 3255 3457
JPY 164 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14587 15174
SGD 19623 19904 20418
THB 726 789 842
USD (1,2) 26058 0 0
USD (5,10,20) 26099 0 0
USD (50,100) 26128 26147 26355
Cập nhật: 06/11/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,135 26,135 26,355
USD(1-2-5) 25,090 - -
USD(10-20) 25,090 - -
EUR 29,886 29,910 31,045
JPY 168.05 168.35 175.37
GBP 33,989 34,081 34,885
AUD 16,862 16,923 17,367
CAD 18,365 18,424 18,949
CHF 32,245 32,345 33,022
SGD 19,779 19,841 20,459
CNY - 3,646 3,743
HKD 3,335 3,345 3,427
KRW 16.87 17.59 18.88
THB 775.31 784.89 834.92
NZD 14,605 14,741 15,089
SEK - 2,716 2,795
DKK - 3,999 4,115
NOK - 2,541 2,616
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,891.74 - 6,610.04
TWD 771.13 - 928.45
SAR - 6,919.55 7,243.55
KWD - 83,598 88,400
Cập nhật: 06/11/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,130 26,135 26,355
EUR 29,689 29,808 30,937
GBP 33,740 33,875 34,853
HKD 3,317 3,330 3,438
CHF 31,951 32,079 32,982
JPY 167.12 167.79 174.81
AUD 16,759 16,826 17,373
SGD 19,790 19,869 20,407
THB 789 792 827
CAD 18,315 18,389 18,921
NZD 14,638 15,136
KRW 17.48 19.11
Cập nhật: 06/11/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26120 26120 26355
AUD 16785 16885 17808
CAD 18316 18416 19430
CHF 32123 32153 33727
CNY 0 3660 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29843 29873 31598
GBP 33875 33925 35694
HKD 0 3390 0
JPY 167.55 168.05 178.56
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14698 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19777 19907 20638
THB 0 755.6 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14580000 14580000 14780000
SBJ 13000000 13000000 14780000
Cập nhật: 06/11/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,148 26,198 26,355
USD20 26,148 26,198 26,355
USD1 23,845 26,198 26,355
AUD 16,807 16,907 18,018
EUR 29,981 29,981 31,300
CAD 18,253 18,353 19,666
SGD 19,853 20,003 21,130
JPY 168.03 169.53 174.1
GBP 33,977 34,127 34,892
XAU 14,548,000 0 14,752,000
CNY 0 3,542 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/11/2025 14:00