Nhiều địa phương đồng loạt tham gia phát triển điện gió, các chuyên gia nói gì?

20:10 | 12/12/2021

749 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Việc 55 địa phương xin bổ sung quy hoạch nguồn điện gió với tổng công suất gấp 3 kịch bản Bộ Công Thương đưa ra đến năm 2030 khiến không ít giới chuyên gia năng lượng lo ngại...

Cuộc "chạy đua" đăng ký đầu tư, phát triển điện gió

Sau khi Văn phòng Chính phủ có công văn gửi các địa phương yêu cầu báo cáo tổng hợp các đề xuất bổ sung nguồn điện và lưới điện chưa được phê duyệt để Bộ Công Thương tổng hợp, đến thời điểm này đã có 55 địa phương đề xuất bổ sung nguồn điện (gió, khí) vào quy hoạch phát triển điện VIII, với tổng công suất đặt hơn 440.000 MW

Đơn cử như tỉnh Cà Mau đã có văn bản hỏa tốc đề xuất bổ sung nguồn và lưới điện trong cả 3 dự án, điện khí, điện mặt trời lẫn điện gió. Cụ thể, tỉnh đề xuất 4 dự án điện khí LNG với tổng công suất 10.700 MW, 24 dự án điện gió với tổng công suất hơn 12.000 MW, trong đó có 6 dự án điện gió ngoài khơi.

Mô phỏng tuốc bin tại dự án điện gió ThangLong Wind, Bình Thuận
Mô phỏng turbine tại dự án điện gió công suất 3.400MW ThangLong Wind, Bình Thuận

Tương tự, hai địa phương có nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, mặt trời) phát triển bùng nổ thời gian qua là tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận xin bổ sung vào quy hoạch điện VIII lần lượt hơn 25.300 MW và 42.595 MW. Tỉnh Bình Thuận đề xuất chủ yếu nguồn năng lượng điện gió với những dự án quy mô lớn như: Bình Thuận 5.000 MW, Tuy Phong 4.600 MW, La Gàn 3.500 MW, Thăng Long Wind 3.400 MW...

Còn Ninh Thuận đề xuất bổ sung trên 21.000 MW điện gió ngoài khơi vào quy hoạch điện VIII, gần 1.900 MW điện gió trên bờ, 4.400 MW điện gió gần bờ.

Tại khu vực phía Bắc như Nam Định, Hải Phòng, Quảng Ninh, cũng đề xuất tham gia bổ sung lượng lớn công suất điện gió, điện khí vào quy hoạch điện VIII lần này. Trong đó, Hải Phòng đề nghị bổ sung 3.900 MW điện gió ngoài khơi; Thái Bình muốn đưa 8.700 MW điện gió, hay Nam Định xin bổ sung 12.000 MW... vào quy hoạch điện VIII. Quảng Ninh muốn đưa vào quy hoạch khoảng 5.000 MW điện gió với 3.000 MW điện gió ngoài khơi.

Cẩn trọng trong việc tính toán cân đối nguồn của quy hoạch

Việc các địa phương đồng loạt xin bổ sung vào quy hoạch lượng lớn công suất năng lượng tái tạo, nhất là điện gió, điện khí, diễn ra trong bối cảnh Bộ Công Thương đang phải hoàn thiện, rà soát lại quy hoạch điện VIII sau năm 2030 theo hướng chuyển đổi nhiên liệu hoặc không tiếp tục phát triển nếu dự án không có các ràng buộc, có nguy cơ gây thiệt hại về kinh tế. Đồng thời cập nhật những cam kết của Thủ tướng Phạm Minh Chính về giảm phát thải ròng về 0 tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP 26), cân nhắc tăng thêm quy mô điện gió ngoài khơi và nghiên cứu cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển nguồn điện này.

Việc các địa phương xin bổ sung quy hoạch nguồn điện gió với tổng công suất gấp 3 kịch bản Bộ Công Thương đưa ra đến năm 2030 khiến không ít giới chuyên gia năng lượng lo ngại. Dù Việt Nam có tiềm năng lớn và có thể thành trung tâm điện gió ngoài khơi, nhưng việc đồng loạt các địa phương muốn xin bổ sung loại năng lượng này với tổng công suất đặt rất lớn đặt ra nhiều vấn đề trong khi bài học nhãn tiền phát triển "nóng" điện mặt trời vẫn còn đó.

Chia sẻ tại tọa đàm về đầu tư điện gió mới đây, ông Nguyễn Anh Tuấn, chuyên gia năng lượng, nguyên Giám đốc Trung tâm Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) cho rằng, đầu tư điện gió có nhiều ưu điểm hơn nhưng lại yêu cầu tính phức tạp về kỹ thuật, nhất là điện gió ngoài khơi. Ngoài ra, Việt Nam cũng chưa có kinh nghiệm phát triển điện gió ngoài khơi, tỷ lệ nội địa hóa thấp, hình thức chủ yếu vẫn là nhập toàn bộ về vào lắp đặt.

Cũng theo ông Tuấn, điện gió, chủ yếu là điện gió trên bờ, ở Việt Nam trong 10 năm qua phát triển đột phá, nhất là trong năm 2021 khi các nhà đầu tư "chạy đua" nối lưới để kịp vận hành thương mại trước ngày 30/10/2021 hưởng giá FIT ưu đãi trong 20 năm. Từ 30 MW vào năm 2011, điện gió đã đạt công suất đặt 4.800 MW vào năm 2021.

"Lựa chọn con đường phát triển cho điện gió cần cơ chế chính sách, đặc biệt là cơ chế chia sẻ rủi ro khi toàn bộ đang đặt trên vai chủ đầu tư", ông Tuấn lưu ý.

Chia sẻ với báo chí, ông Nguyễn Văn Vy, Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam tỏ ý lo ngại khi các địa phương ồ ạt xin bổ sung lượng lớn công suất nguồn đặt điện gió, điện khí LNG. Theo ông Vy, các địa phương xin bổ sung quy hoạch của các địa phương đã gấp gần 3 lần kịch bản đến năm 2030 mà Bộ Công Thương đưa ra tại phương án tính toán dự thảo quy hoạch điện VIII vào tháng 11. Trong đó, lượng công suất điện gió ngoài khơi mà các địa phương xin bổ sung vượt xa con số trong kịch bản của Bộ Công Thương là 4.000 MW vào năm 2030; 10.000 MW vào 2035, rồi tăng lên 23.000 MW vào 2040 và đạt 36.000 MW vào năm 2045.

Như vậy, chắc chắn ảnh hưởng tới tính toán cân đối nguồn của quy hoạch. "Điện không phải cứ có bao nhiêu là dùng bấy nhiêu như những loại hàng hóa khác. Việc bổ sung không thể ồ ạt, nên Bộ Công Thương phải cân đối, tính toán sẽ cần bao nhiêu, cần ở đâu để thẩm định, phê duyệt phù hợp. Sẽ mất thêm thời gian cho việc này", Phó chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhận xét.

Ông Nguyễn Văn Vy cũng nhắc lại bài học bùng nổ phát triển điện mặt trời cách đây 2 năm, tính chất và bản chất giữa điện gió và mặt trời khác nhau, nhưng ông cũng đặt vấn đề nếu không có sự kiểm soát tốt vẫn có thể dẫn tới một cuộc bùng nổ phát triển điện gió tương tự.

Ông Vy cho rằng cần có sự hài hóa giữa chính sách và nguồn điện, lưới truyền tải điện. Việc các tỉnh đồng loạt đề nghị bổ sung lượng lớn nguồn điện tái tạo này vào quy hoạch cũng sẽ tiềm ẩn rủi ro cả phía đầu tư, cân đối an toàn hệ thống và lưới truyền tải điện.

"Dự án vào quá nhiều, ồ ạt trong khi lưới truyền tải không đáp ứng, các dự án lại đối diện việc bị cắt giảm công suất. Trong khi đó, hiện chính sách cho điện gió sau ngày 30/10/2010 chưa được Bộ Công Thương đưa ra rõ ràng, việc phát triển nóng sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro", ông nhận định.

Còn TS Hoàng Xuân Lương - đại diện Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA) - cho rằng, cam kết net zero của Thủ tướng tại COP26 đã tạo được uy tín quốc tế và tạo đà để Việt Nam thu hút được hỗ trợ quốc tế.

Có thể nói đây là "thời cơ vàng" để chuyển dịch với nguồn tài chính quốc tế đang chuyển dịch mạnh mẽ sang năng lượng sạch. Dẫn chứng như quốc gia khá thành công trong việc chuyện dịch năng lượng từ than sang năng lượng sạch trong đó có điện gió như Nam Phi, quốc gia này đã huy động được 8,5 tỉ USD từ các quốc gia phát triển.

"Nhìn lại Việt Nam, chúng ta có nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo phong phú, với tổng công suất 377 GW gió, 434 GW mặt trời. Chính vì vậy, cần tham khảo bài học từ Nam Phi để đi tắt đón đầu", ông Lương nói.

Ông Lương cũng lưu ý các nhà hoạch định chính sách cần phải đánh giá lại toàn bộ các nguồn cung trước mắt và lâu dài, xác định cơ cấu nguồn hợp lý, sử dụng chính sách giá mua điện để kích thích hoặc hạn chế đầu tư loại nguồn điện. Sự phát triển này là nhờ chính sách ưu đãi về giá với điện gió.

M.C

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,700 ▼100K 83,800 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,700 ▼100K 84,000 ▼100K
AVPL/SJC ĐN 81,700 ▼100K 84,000 ▼100K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,600 ▼400K 75,800 ▼400K
Nguyên liệu 999 - HN 74,500 ▼400K 75,700 ▼400K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,700 ▼100K 83,800 ▼300K
Cập nhật: 16/04/2024 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 ▲100K 76.800 ▲200K
TPHCM - SJC 81.700 ▼100K 83.700 ▼400K
Hà Nội - PNJ 74.800 ▲100K 76.800 ▲200K
Hà Nội - SJC 81.700 ▼100K 83.700 ▼400K
Đà Nẵng - PNJ 74.800 ▲100K 76.800 ▲200K
Đà Nẵng - SJC 81.700 ▼100K 83.700 ▼400K
Miền Tây - PNJ 74.800 ▲100K 76.800 ▲200K
Miền Tây - SJC 81.700 ▼400K 83.700 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 ▲100K 76.800 ▲200K
Giá vàng nữ trang - SJC 81.700 ▼100K 83.700 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800 ▲100K
Giá vàng nữ trang - SJC 81.700 ▼100K 83.700 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 ▲100K 75.500 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 ▲80K 56.780 ▲80K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 ▲60K 44.320 ▲60K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 ▲40K 31.560 ▲40K
Cập nhật: 16/04/2024 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,455 7,670
Trang sức 99.9 7,445 7,660
NL 99.99 7,450
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,430
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,520 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,520 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,520 7,700
Miếng SJC Thái Bình 8,170 ▼40K 8,380 ▼30K
Miếng SJC Nghệ An 8,170 ▼40K 8,380 ▼30K
Miếng SJC Hà Nội 8,170 ▼40K 8,380 ▼30K
Cập nhật: 16/04/2024 21:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,700 ▼400K 83,700 ▼400K
SJC 5c 81,700 ▼400K 83,720 ▼400K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,700 ▼400K 83,730 ▼400K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,700 ▲100K 76,600 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,700 ▲100K 76,700 ▲100K
Nữ Trang 99.99% 74,600 ▲100K 75,900 ▲100K
Nữ Trang 99% 73,149 ▲99K 75,149 ▲99K
Nữ Trang 68% 49,267 ▲68K 51,767 ▲68K
Nữ Trang 41.7% 29,303 ▲41K 31,803 ▲41K
Cập nhật: 16/04/2024 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,749.34 15,908.42 16,418.96
CAD 17,802.06 17,981.88 18,558.97
CHF 26,930.33 27,202.35 28,075.34
CNY 3,412.63 3,447.11 3,558.27
DKK - 3,520.85 3,655.72
EUR 26,070.32 26,333.66 27,500.10
GBP 30,532.92 30,841.34 31,831.11
HKD 3,138.80 3,170.50 3,272.25
INR - 301.01 313.05
JPY 158.47 160.07 167.73
KRW 15.60 17.33 18.90
KWD - 81,601.88 84,865.15
MYR - 5,211.05 5,324.76
NOK - 2,251.43 2,347.05
RUB - 256.70 284.17
SAR - 6,704.80 6,972.92
SEK - 2,263.23 2,359.35
SGD 17,996.27 18,178.05 18,761.43
THB 604.42 671.58 697.30
USD 24,978.00 25,008.00 25,348.00
Cập nhật: 16/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,883 15,903 16,503
CAD 17,973 17,983 18,683
CHF 27,188 27,208 28,158
CNY - 3,423 3,563
DKK - 3,513 3,683
EUR #26,023 26,233 27,523
GBP 30,939 30,949 32,119
HKD 3,099 3,109 3,304
JPY 159.21 159.36 168.91
KRW 15.93 16.13 19.93
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,221 2,341
NZD 14,603 14,613 15,193
SEK - 2,236 2,371
SGD 17,967 17,977 18,777
THB 636.63 676.63 704.63
USD #25,015 25,015 25,348
Cập nhật: 16/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,030.00 25,048.00 25,348.00
EUR 26,214.00 26,319.00 27,471.00
GBP 30,655.00 30,840.00 31,767.00
HKD 3,156.00 3,169.00 3,269.00
CHF 27,071.00 27,180.00 27,992.00
JPY 159.45 160.09 167.24
AUD 15,862.00 15,926.00 16,400.00
SGD 18,109.00 18,182.00 18,699.00
THB 667.00 670.00 696.00
CAD 17,920.00 17,992.00 18,500.00
NZD 14,570.00 15,049.00
KRW 17.26 18.81
Cập nhật: 16/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25080 25130 25330
AUD 16020 16070 16482
CAD 18121 18171 18573
CHF 27468 27518 27930
CNY 0 3457.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26597 26647 27150
GBP 31246 31296 31763
HKD 0 3115 0
JPY 161.58 162.08 166.64
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0323 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14680 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18372 18372 18728
THB 0 649.6 0
TWD 0 777 0
XAU 8150000 8150000 8320000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 16/04/2024 21:00