Nhiều địa phương đồng loạt tham gia phát triển điện gió, các chuyên gia nói gì?

20:10 | 12/12/2021

771 lượt xem
|
(PetroTimes) - Việc 55 địa phương xin bổ sung quy hoạch nguồn điện gió với tổng công suất gấp 3 kịch bản Bộ Công Thương đưa ra đến năm 2030 khiến không ít giới chuyên gia năng lượng lo ngại...

Cuộc "chạy đua" đăng ký đầu tư, phát triển điện gió

Sau khi Văn phòng Chính phủ có công văn gửi các địa phương yêu cầu báo cáo tổng hợp các đề xuất bổ sung nguồn điện và lưới điện chưa được phê duyệt để Bộ Công Thương tổng hợp, đến thời điểm này đã có 55 địa phương đề xuất bổ sung nguồn điện (gió, khí) vào quy hoạch phát triển điện VIII, với tổng công suất đặt hơn 440.000 MW

Đơn cử như tỉnh Cà Mau đã có văn bản hỏa tốc đề xuất bổ sung nguồn và lưới điện trong cả 3 dự án, điện khí, điện mặt trời lẫn điện gió. Cụ thể, tỉnh đề xuất 4 dự án điện khí LNG với tổng công suất 10.700 MW, 24 dự án điện gió với tổng công suất hơn 12.000 MW, trong đó có 6 dự án điện gió ngoài khơi.

Mô phỏng tuốc bin tại dự án điện gió ThangLong Wind, Bình Thuận
Mô phỏng turbine tại dự án điện gió công suất 3.400MW ThangLong Wind, Bình Thuận

Tương tự, hai địa phương có nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, mặt trời) phát triển bùng nổ thời gian qua là tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận xin bổ sung vào quy hoạch điện VIII lần lượt hơn 25.300 MW và 42.595 MW. Tỉnh Bình Thuận đề xuất chủ yếu nguồn năng lượng điện gió với những dự án quy mô lớn như: Bình Thuận 5.000 MW, Tuy Phong 4.600 MW, La Gàn 3.500 MW, Thăng Long Wind 3.400 MW...

Còn Ninh Thuận đề xuất bổ sung trên 21.000 MW điện gió ngoài khơi vào quy hoạch điện VIII, gần 1.900 MW điện gió trên bờ, 4.400 MW điện gió gần bờ.

Tại khu vực phía Bắc như Nam Định, Hải Phòng, Quảng Ninh, cũng đề xuất tham gia bổ sung lượng lớn công suất điện gió, điện khí vào quy hoạch điện VIII lần này. Trong đó, Hải Phòng đề nghị bổ sung 3.900 MW điện gió ngoài khơi; Thái Bình muốn đưa 8.700 MW điện gió, hay Nam Định xin bổ sung 12.000 MW... vào quy hoạch điện VIII. Quảng Ninh muốn đưa vào quy hoạch khoảng 5.000 MW điện gió với 3.000 MW điện gió ngoài khơi.

Cẩn trọng trong việc tính toán cân đối nguồn của quy hoạch

Việc các địa phương đồng loạt xin bổ sung vào quy hoạch lượng lớn công suất năng lượng tái tạo, nhất là điện gió, điện khí, diễn ra trong bối cảnh Bộ Công Thương đang phải hoàn thiện, rà soát lại quy hoạch điện VIII sau năm 2030 theo hướng chuyển đổi nhiên liệu hoặc không tiếp tục phát triển nếu dự án không có các ràng buộc, có nguy cơ gây thiệt hại về kinh tế. Đồng thời cập nhật những cam kết của Thủ tướng Phạm Minh Chính về giảm phát thải ròng về 0 tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP 26), cân nhắc tăng thêm quy mô điện gió ngoài khơi và nghiên cứu cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển nguồn điện này.

Việc các địa phương xin bổ sung quy hoạch nguồn điện gió với tổng công suất gấp 3 kịch bản Bộ Công Thương đưa ra đến năm 2030 khiến không ít giới chuyên gia năng lượng lo ngại. Dù Việt Nam có tiềm năng lớn và có thể thành trung tâm điện gió ngoài khơi, nhưng việc đồng loạt các địa phương muốn xin bổ sung loại năng lượng này với tổng công suất đặt rất lớn đặt ra nhiều vấn đề trong khi bài học nhãn tiền phát triển "nóng" điện mặt trời vẫn còn đó.

Chia sẻ tại tọa đàm về đầu tư điện gió mới đây, ông Nguyễn Anh Tuấn, chuyên gia năng lượng, nguyên Giám đốc Trung tâm Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) cho rằng, đầu tư điện gió có nhiều ưu điểm hơn nhưng lại yêu cầu tính phức tạp về kỹ thuật, nhất là điện gió ngoài khơi. Ngoài ra, Việt Nam cũng chưa có kinh nghiệm phát triển điện gió ngoài khơi, tỷ lệ nội địa hóa thấp, hình thức chủ yếu vẫn là nhập toàn bộ về vào lắp đặt.

Cũng theo ông Tuấn, điện gió, chủ yếu là điện gió trên bờ, ở Việt Nam trong 10 năm qua phát triển đột phá, nhất là trong năm 2021 khi các nhà đầu tư "chạy đua" nối lưới để kịp vận hành thương mại trước ngày 30/10/2021 hưởng giá FIT ưu đãi trong 20 năm. Từ 30 MW vào năm 2011, điện gió đã đạt công suất đặt 4.800 MW vào năm 2021.

"Lựa chọn con đường phát triển cho điện gió cần cơ chế chính sách, đặc biệt là cơ chế chia sẻ rủi ro khi toàn bộ đang đặt trên vai chủ đầu tư", ông Tuấn lưu ý.

Chia sẻ với báo chí, ông Nguyễn Văn Vy, Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam tỏ ý lo ngại khi các địa phương ồ ạt xin bổ sung lượng lớn công suất nguồn đặt điện gió, điện khí LNG. Theo ông Vy, các địa phương xin bổ sung quy hoạch của các địa phương đã gấp gần 3 lần kịch bản đến năm 2030 mà Bộ Công Thương đưa ra tại phương án tính toán dự thảo quy hoạch điện VIII vào tháng 11. Trong đó, lượng công suất điện gió ngoài khơi mà các địa phương xin bổ sung vượt xa con số trong kịch bản của Bộ Công Thương là 4.000 MW vào năm 2030; 10.000 MW vào 2035, rồi tăng lên 23.000 MW vào 2040 và đạt 36.000 MW vào năm 2045.

Như vậy, chắc chắn ảnh hưởng tới tính toán cân đối nguồn của quy hoạch. "Điện không phải cứ có bao nhiêu là dùng bấy nhiêu như những loại hàng hóa khác. Việc bổ sung không thể ồ ạt, nên Bộ Công Thương phải cân đối, tính toán sẽ cần bao nhiêu, cần ở đâu để thẩm định, phê duyệt phù hợp. Sẽ mất thêm thời gian cho việc này", Phó chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhận xét.

Ông Nguyễn Văn Vy cũng nhắc lại bài học bùng nổ phát triển điện mặt trời cách đây 2 năm, tính chất và bản chất giữa điện gió và mặt trời khác nhau, nhưng ông cũng đặt vấn đề nếu không có sự kiểm soát tốt vẫn có thể dẫn tới một cuộc bùng nổ phát triển điện gió tương tự.

Ông Vy cho rằng cần có sự hài hóa giữa chính sách và nguồn điện, lưới truyền tải điện. Việc các tỉnh đồng loạt đề nghị bổ sung lượng lớn nguồn điện tái tạo này vào quy hoạch cũng sẽ tiềm ẩn rủi ro cả phía đầu tư, cân đối an toàn hệ thống và lưới truyền tải điện.

"Dự án vào quá nhiều, ồ ạt trong khi lưới truyền tải không đáp ứng, các dự án lại đối diện việc bị cắt giảm công suất. Trong khi đó, hiện chính sách cho điện gió sau ngày 30/10/2010 chưa được Bộ Công Thương đưa ra rõ ràng, việc phát triển nóng sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro", ông nhận định.

Còn TS Hoàng Xuân Lương - đại diện Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA) - cho rằng, cam kết net zero của Thủ tướng tại COP26 đã tạo được uy tín quốc tế và tạo đà để Việt Nam thu hút được hỗ trợ quốc tế.

Có thể nói đây là "thời cơ vàng" để chuyển dịch với nguồn tài chính quốc tế đang chuyển dịch mạnh mẽ sang năng lượng sạch. Dẫn chứng như quốc gia khá thành công trong việc chuyện dịch năng lượng từ than sang năng lượng sạch trong đó có điện gió như Nam Phi, quốc gia này đã huy động được 8,5 tỉ USD từ các quốc gia phát triển.

"Nhìn lại Việt Nam, chúng ta có nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo phong phú, với tổng công suất 377 GW gió, 434 GW mặt trời. Chính vì vậy, cần tham khảo bài học từ Nam Phi để đi tắt đón đầu", ông Lương nói.

Ông Lương cũng lưu ý các nhà hoạch định chính sách cần phải đánh giá lại toàn bộ các nguồn cung trước mắt và lâu dài, xác định cơ cấu nguồn hợp lý, sử dụng chính sách giá mua điện để kích thích hoặc hạn chế đầu tư loại nguồn điện. Sự phát triển này là nhờ chính sách ưu đãi về giá với điện gió.

M.C

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 151,700
Hà Nội - PNJ 148,700 151,700
Đà Nẵng - PNJ 148,700 151,700
Miền Tây - PNJ 148,700 151,700
Tây Nguyên - PNJ 148,700 151,700
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 151,700
Cập nhật: 26/11/2025 10:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 15,250
NL 99.99 14,230
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230
Trang sức 99.9 14,540 15,140
Trang sức 99.99 14,550 15,150
Cập nhật: 26/11/2025 10:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 15,292
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 15,293
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,485 ▲1337K 151 ▼1354K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,485 ▲1337K 1,511 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 147 ▼1318K 150 ▼1345K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 144,015 ▲129663K 148,515 ▲133713K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,161 ▲375K 112,661 ▲375K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,466 ▲34K 10,216 ▲34K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,159 ▲305K 91,659 ▲305K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 80,109 ▲292K 87,609 ▲292K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,206 ▲208K 62,706 ▲208K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cập nhật: 26/11/2025 10:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16605 16874 17448
CAD 18200 18476 19091
CHF 32061 32443 33091
CNY 0 3470 3830
EUR 29911 30183 31212
GBP 33981 34371 35302
HKD 0 3260 3462
JPY 162 166 172
KRW 0 17 19
NZD 0 14688 15277
SGD 19725 20006 20527
THB 733 796 850
USD (1,2) 26105 0 0
USD (5,10,20) 26147 0 0
USD (50,100) 26175 26195 26403
Cập nhật: 26/11/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,110 30,134 31,280
JPY 165.65 165.95 172.91
GBP 34,346 34,439 35,248
AUD 16,856 16,917 17,359
CAD 18,421 18,480 19,002
CHF 32,355 32,456 33,119
SGD 19,889 19,951 20,574
CNY - 3,675 3,772
HKD 3,341 3,351 3,433
KRW 16.74 17.46 18.75
THB 781.55 791.2 841.88
NZD 14,664 14,800 15,152
SEK - 2,729 2,808
DKK - 4,028 4,144
NOK - 2,544 2,618
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,991.18 - 6,719.99
TWD 761.07 - 916.32
SAR - 6,931.85 7,256.12
KWD - 83,751 88,676
Cập nhật: 26/11/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,924 30,044 31,176
GBP 34,096 34,233 35,203
HKD 3,323 3,336 3,444
CHF 32,078 32,207 33,098
JPY 164.89 165.55 172.49
AUD 16,749 16,816 17,353
SGD 19,908 19,988 20,529
THB 795 798 834
CAD 18,374 18,448 18,982
NZD 14,665 15,174
KRW 17.34 18.94
Cập nhật: 26/11/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26170 26170 26403
AUD 16781 16881 17809
CAD 18381 18481 19496
CHF 32310 32340 33931
CNY 0 3687.5 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30096 30126 31851
GBP 34278 34328 36091
HKD 0 3390 0
JPY 165.68 166.18 176.73
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14800 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19882 20012 20740
THB 0 762.7 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15140000 15140000 15340000
SBJ 13000000 13000000 15340000
Cập nhật: 26/11/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,190 26,240 26,403
USD20 26,190 26,240 26,403
USD1 23,889 26,240 26,403
AUD 16,789 16,889 18,010
EUR 30,196 30,196 31,327
CAD 18,308 18,408 19,724
SGD 19,949 20,099 20,715
JPY 165.59 167.09 171.76
GBP 34,316 34,466 35,253
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,571 0
THB 0 798 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 10:45