Loạt bất cập trong triển khai tín dụng xanh

07:52 | 19/08/2024

5,646 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Tín dụng xanh, ngân hàng xanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc triển khai thành công Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Tuy nhiên qua thực tế triển khai, dù đã có những tín hiệu tích cực nhưng lĩnh vực này ở Việt Nam vẫn tồn tại những bất cập, chưa khai thác hết tiềm năng.
Loạt bất cập trong triển khai tín dụng xanh

Khung pháp lý chưa hoàn thiện

Tín dụng xanh, ngân hàng xanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc triển khai thành công Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, tạo nguồn lực giúp các doanh nghiệp đầu tư dự án, chương trình, cơ sở hạ tầng nhằm giảm thiểu phát thải, bảo vệ môi trường. Thời gian qua, ngành ngân hàng luôn tích cực và nỗ lực hướng đến các mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra trong chiến lược.

Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy định về tín dụng nhằm bảo vệ môi trường và giảm phát thải carbon như: Chỉ thị số 03/CT-NHNN năm 2015 và Thông tư số 17/2022/TT-NHNN hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Ngoài ra, các yêu cầu về bảo vệ môi trường đã được lồng ghép vào quy định hiện hành về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.

Tuy nhiên, thực tế triển khai tín dụng xanh đang gặp nhiều khó khăn, thách thức. Thống kê của Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) cho thấy, hiện có 47 ngân hàng phát sinh dư nợ tín dụng xanh. Tuy vậy, dư nợ tín dụng xanh mới chiếm 4,5% tổng dư nợ nền kinh tế. Nguyên nhân khiến tỷ lệ này còn khiêm tốn, theo các ngân hàng thương mại, là do hành lang pháp lý chưa đầy đủ, danh mục phân loại xanh quốc gia chưa rõ ràng…

Theo TS Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, mặc dù đã có những tín hiệu tích cực trong tăng trưởng tín dụng xanh, ngân hàng xanh, song vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. Việc phát triển hoạt động ngân hàng xanh Việt Nam còn nhiều bất cập như: Cần nguồn lực rất lớn để triển khai; kiến thức, kinh nghiệm của cán bộ ngân hàng thực hiện công tác thẩm định và phê duyệt cấp tín dụng liên quan các vấn đề môi trường xã hội nhìn chung còn hạn chế. Một số ngân hàng rất chủ động nhưng số khác lại dậm chân. Có ngân hàng chưa xây dựng được quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường và xã hội, chưa có đơn vị/bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro với mảng này…

Mới đây, tại Diễn đàn Tài chính xanh năm 2024, ông Nguyễn Bá Sơn - Phó Giám đốc Ban Kinh doanh vốn và tiền tệ Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) chia sẻ: BIDV là tổ chức đầu tiên của Việt Nam phát hành trái phiếu xanh. Qua thực tế triển khai trái phiếu xanh năm 2023, chúng tôi cho rằng cần sớm ban hành quy định phân loại và xác nhận dự án xanh, xem xét sự tương đồng giữa các tiêu chí xanh của Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế; các chính sách ưu đãi để thu hút nhà đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực về môi trường và xây dựng hệ thống dữ liệu về môi trường.

“Rất cần các hoạt động nâng cao nhận thức và khuyến khích doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi xanh; duy trì, mở rộng các cơ chế hỗ trợ chi phí phát hành, tư vấn kỹ thuật và khuyến khích các doanh nghiệp đầu ngành tiên phong phát hành chứng khoán xanh…”, ông Sơn khuyến nghị.

Tương tự, ông Nguyễn Thanh Tùng - Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cho hay, dù rất muốn đẩy mạnh tín dụng xanh, song ngân hàng này vẫn đang loay hoay vì các chuẩn mực với dự án xanh chưa có. “Rất mong các bộ, ngành sớm xây dựng tiêu chí về dự án xanh để ngân hàng có tiêu chí triển khai”, ông Tùng kiến nghị.

Trong báo cáo kiến nghị mới đây, nhóm chuyên gia nghiên cứu Trường Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng, để phát triển tín dụng xanh, giải pháp đầu tiên là phải hoàn thiện khung pháp lý. Cụ thể, phải xây dựng các tiêu chí xác định dự án xanh. Đây là cơ sở để các tổ chức tín dụng căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh cho các dự án.

“Cần xây dựng lộ trình cụ thể cho việc thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ các lĩnh vực, ngành xanh về thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, quy hoạch, chiến lược phát triển... một cách đồng bộ, nhằm thu hút và phát huy hiệu quả nguồn vốn tín dụng xanh”, nhóm nghiên cứu đề xuất.

Loạt bất cập trong triển khai tín dụng xanh

Cần đa dạng hóa nguồn vốn

Ngoài thiếu hành lang pháp lý, các ngân hàng thương mại cũng đang khó khăn trong việc tìm nguồn vốn xanh để cho vay. Thời gian qua, nhiều ngân hàng thành công trong việc huy động hàng tỉ USD từ các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, nguồn vốn này vẫn còn nhỏ so với nhu cầu thị trường.

Ông Võ Văn Quang - Phó Tổng giám đốc, Giám đốc Khối Đầu tư Ngân hàng TMCP Bắc Á (Bac A Bank) cho biết, phần lớn nguồn vốn cho vay dự án xanh của các ngân hàng đến từ huy động vốn. Còn nguồn vốn tài trợ của Chính phủ có nhưng chưa nhiều. Vì thế, để triển khai chính sách tín dụng xanh, Bac A Bank cũng như nhiều ngân hàng khác phải tính toán căn cơ, cân đối hài hòa.

Còn theo bà Trần Tường Vân - Giám đốc tư vấn, Công ty CP Tư vấn EY Việt Nam, các ngân hàng đang sẵn sàng cho vay xanh và rất muốn tìm kiếm khách hàng phù hợp. Nhưng để mở rộng cho vay, các ngân hàng cũng đang rất trăn trở về tiêu chí phân loại xanh và nguồn vốn. Nguồn vốn xanh có thể đến từ các tổ chức quốc tế, vay ngân hàng đối tác...

Trao đổi với Tạp chí Năng lượng Mới, TS Nguyễn Trí Hiếu - Chuyên gia tài chính, ngân hàng cho rằng, hiện có hơn 80% vốn huy động của các tổ chức tín dụng là ngắn hạn, trong khi tín dụng xanh chủ yếu là dự án dài hạn từ 5 đến 10 năm hoặc lâu hơn. Trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước siết chặt tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại càng khó bố trí nguồn vốn dài hạn để cho vay. Chưa kể, rủi ro với cho vay các dự án này không nhỏ, trong khi thời gian thu hồi vốn dài.

“Tín dụng xanh ở nước ta còn quá khiêm tốn. Hiện tại, tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn xuống rất thấp, các ngân hàng đang bị “bó tay” bởi tỷ lệ đó. Chưa kể, đa phần dự án xanh đòi hỏi lãi suất cho vay thấp, tương đương với lợi nhuận thấp, trong khi rủi ro lớn. Nhiều dự án xanh (như trong lĩnh vực năng lượng), nếu không có sự bảo lãnh của Chính phủ, thì khả năng dự án vỡ nợ là có, đồng nghĩa rủi ro cho ngân hàng”, TS Nguyễn Trí Hiếu nhận định.

TS Hiếu phân tích và khẳng định, thời điểm này không thể kỳ vọng quá nhiều vốn ngân hàng tài trợ, đầu tư lĩnh vực xanh mà nên tìm đến nguồn tài trợ từ các tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức tài chính lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC)...

Ngoài thiếu hành lang pháp lý, các ngân hàng thương mại cũng đang khó khăn trong việc tìm nguồn vốn xanh để cho vay. Thời gian qua, nhiều ngân hàng thành công trong việc huy động hàng tỉ USD từ các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, nguồn vốn này vẫn còn nhỏ so với nhu cầu thị trường.

Mạnh Tưởng

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • vietinbank
  • bao-hiem-pjico
  • rot-von-duong-dai-agri
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,000 80,000
AVPL/SJC HCM 78,000 80,000
AVPL/SJC ĐN 78,000 80,000
Nguyên liệu 9999 - HN 76,600 77,150
Nguyên liệu 999 - HN 76,500 77,050
AVPL/SJC Cần Thơ 78,000 80,000
Cập nhật: 20/08/2024 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 76.850 78.200
TPHCM - SJC 78.000 80.000
Hà Nội - PNJ 76.850 78.200
Hà Nội - SJC 78.000 80.000
Đà Nẵng - PNJ 76.850 78.200
Đà Nẵng - SJC 78.000 80.000
Miền Tây - PNJ 76.850 78.200
Miền Tây - SJC 78.000 80.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 76.850 78.200
Giá vàng nữ trang - SJC 78.000 80.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 76.850
Giá vàng nữ trang - SJC 78.000 80.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 76.850
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 76.700 77.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 76.620 77.420
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 75.830 76.830
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 70.590 71.090
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 56.880 58.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.450 52.850
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.130 50.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.030 47.430
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.090 45.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 30.990 32.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 27.810 29.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.330 25.730
Cập nhật: 20/08/2024 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,585 7,780
Trang sức 99.9 7,575 7,770
NL 99.99 7,590
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,590
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,690 7,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,690 7,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,690 7,820
Miếng SJC Thái Bình 7,800 8,000
Miếng SJC Nghệ An 7,800 8,000
Miếng SJC Hà Nội 7,800 8,000
Cập nhật: 20/08/2024 02:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,000 80,000
SJC 5c 78,000 80,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,000 80,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 76,800 78,200
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 76,800 78,300
Nữ Trang 99.99% 76,700 77,700
Nữ Trang 99% 74,931 76,931
Nữ Trang 68% 50,491 52,991
Nữ Trang 41.7% 30,054 32,554
Cập nhật: 20/08/2024 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,267.90 16,432.22 16,959.82
CAD 17,813.76 17,993.70 18,571.43
CHF 28,218.02 28,503.05 29,418.22
CNY 3,429.72 3,464.37 3,576.14
DKK - 3,630.14 3,769.25
EUR 26,884.28 27,155.84 28,359.11
GBP 31,544.77 31,863.41 32,886.46
HKD 3,126.40 3,157.98 3,259.38
INR - 296.95 308.83
JPY 166.53 168.22 176.26
KRW 16.21 18.01 19.65
KWD - 81,545.03 84,807.26
MYR - 5,653.50 5,776.96
NOK - 2,294.26 2,391.72
RUB - 267.20 295.80
SAR - 6,641.13 6,906.81
SEK - 2,348.37 2,448.14
SGD 18,597.26 18,785.11 19,388.26
THB 641.92 713.24 740.58
USD 24,790.00 24,820.00 25,160.00
Cập nhật: 20/08/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,870.00 24,880.00 25,220.00
EUR 27,084.00 27,193.00 28,321.00
GBP 31,746.00 31,938.00 32,930.00
HKD 3,149.00 3,162.00 3,268.00
CHF 28,341.00 28,455.00 29,348.00
JPY 165.24 165.90 173.72
AUD 16,422.00 16,488.00 16,996.00
SGD 18,696.00 18,771.00 19,349.00
THB 707.00 710.00 740.00
CAD 17,982.00 18,054.00 18,598.00
NZD 14,932.00 15,438.00
KRW 17.86 19.70
Cập nhật: 20/08/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24820 24820 25150
AUD 16488 16538 17041
CAD 18046 18096 18552
CHF 28612 28662 29216
CNY 0 3459.5 0
CZK 0 1040 0
DKK 0 3680 0
EUR 27293 27343 28048
GBP 32101 32151 32803
HKD 0 3220 0
JPY 168.77 169.27 173.78
KHR 0 6.2261 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 0.975 0
MYR 0 5812 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 14946 0
PHP 0 412 0
SEK 0 2386 0
SGD 18845 18895 19446
THB 0 683.9 0
TWD 0 765 0
XAU 7800000 7800000 8000000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 20/08/2024 02:00