Khi nào sản lượng khai thác dầu thô của Nga đạt đỉnh?

10:46 | 19/08/2021

4,064 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Cục điều tiết năng lượng, Bộ Năng lượng LB Nga mới đây đã có bài viết phân tích về triển vọng khai thác dầu thô tại Nga. Trữ lượng dầu thô có thể thu hồi với chi phí thấp trên thế giới đang suy giảm ở tất cả các quốc gia sản xuất dầu hàng đầu thế giới, trong đó có Nga. Đồng thời, giới chuyên gia cho rằng, chi phí khai thác các trữ lượng khó thu hồi cao, khiến việc sản xuất dầu với giá hiện tại sẽ không mang lại lợi nhuận cho các nhà sản xuất.
Khi nào sản lượng khai thác dầu thô của Nga đạt đỉnh?

Trữ lượng khó thu hồi

Một trong những vấn đề quan trọng nhất của ngành dầu khí toàn cầu là duy trì chi phí phát triển các trữ lượng dầu khó thu hồi. Giới phân tích cho rằng, trữ lượng này sẽ không hấp dẫn người mua nếu dầu thô được thay thế nhanh chóng bởi các loại năng lượng khác như khí đốt, hydro và các nguồn NLTT. Trong tương lai, sẽ có thời điểm mà các nhà sản xuất hạn chế khai thác trữ lượng dầu khó thu hồi khi mà chi phí đầu tư phát triển mỏ không mang lại hiệu quả. Đối với Nga, điều này đang xảy ra khi các công ty dầu khí nước ngoài sở hữu công nghệ hiện đại để khai thác trữ lượng dầu khó thu hồi không thể chuyển giao công nghệ cho phía Nga vì các lệnh trừng phạt của Mỹ/phương Tây.

Giới chuyên gia nhận định, tình trạng trì trệ lâu dài trong ngành dầu khí có thể thay đổi cơ bản tất cả các nền tảng của nền kinh tế Nga. Sản lượng khai thác dầu thô của Nga sẽ không đạt đỉnh ngay lập tức mà sẽ tăng chậm dần trong nhiều năm cho đến thời điểm mà các nhà sản xuất nhận ra rằng tiêu thụ dầu thô bắt đầu giảm. Vào cuối những năm 2000, sản lượng dầu khai thác của Nga đã được dự báo đạt đỉnh. Tuy nhiên, sản lượng thực tế sau đó đã tăng thêm 10%. Tài nguyên dầu khó thu hồi có trữ lượng lớn trong hệ tầng Bazhenov ở Nga hoàn toàn có thể trở thành một nguồn khai thác mới, tương tự như sản xuất dầu đá phiến tại Mỹ, nơi mà tổng sản lượng khai thác đã vượt qua mức đỉnh sau gần 40 năm.

Một số quốc gia trên thế giới đã qua giai đoạn đỉnh cao về sản xuất dầu, trong số đó có cả những nhà sản xuất hàng dầu. Ví dụ như tại Mexico, quốc gia từ lâu được coi là một trong nhà sản xuất dầu chính ở châu Mỹ. Kể từ năm 2008, sản lượng khai thác của nước này đã sụt giảm đều đặn. Trước Mexico, Vương quốc Anh cũng đã đạt đỉnh sản lượng. Trung Quốc đạt sản lượng cao nhất là 4,3 triệu thùng/ngày vào năm 2015, sau đó suy giảm và ổn định ở mức 3,8 - 3,9 triệu thùng/ngày, trong khi tiêu thụ trong nước ngày càng gia tăng.

Sau suy thoái là ổn định

Theo dự báo phát triển ngành dầu mỏ của Bộ phát triển kinh tế LB Nga ban hành vào tháng 04/2021, sản lượng khai thác dầu thô của Nga cần duy trì ổn định sau khi sụt giảm xuống mức 512 triệu tấn trong năm 2020. Sau khi thỏa thuận OPEC+ kết thúc (dự kiến là trong năm 2022), sản xuất dầu thô tại Nga sẽ tăng trở lại. Theo kịch bản cơ sở, sản lượng sẽ tăng 7,3% lên 550 triệu tấn/năm. Đến năm 2023-2024, sản lượng khai thác sẽ đạt mốc 560 triệu tấn, thấp hơn mức của năm 2019 là 568 triệu tấn. Theo Bộ tài nguyên LB Nga, thời gian khai thác trữ lượng dầu còn lại ở Nga ở mức sản lượng hiện tại là 59 năm; đối với khí đốt thiên nhiên là 103 năm. Bộ này lưu ý rằng cần phải phát triển công tác thăm dò địa chất, kể cả ở những khu vực xa xôi, khó tiếp cận.

Cách mạng địa chất

Trong năm 2020, Rosgeologiya đã tiến hành nhiều cuộc khảo sát địa chất để xác định ranh giới bên ngoài thềm lục địa Bắc Cực. Các chuyên gia đã phát hiện ra một lớp trầm tích dày, lớn có tiềm năng dầu khí trên Biển Laptev. Trữ lượng dầu khí của lớp trầm tích được tính toán là tương đương với các trung tâm dầu khí ở Tây Siberia. Sự kiện địa chất này có thể sẽ trở thành một cuộc cách mạng thực sự trong tương lai. Khu vực các mỏ dầu và khí đốt tiềm năng trên thềm lục địa Bắc Cực cần được nghiên cứu thêm và cần được khảo sát trữ lượng với mật độ cao hơn. Cơ quan liên bang về sử dụng lòng đất (Rosnedra) ủng hộ đề xuất của Rosgeologiya. Việc khảo sát địa chất tại Bắc Cực gặp hạn chế đáng kể khi mùa hè ở đây chỉ kéo dài một tháng rưỡi. Rosnedra nhấn mạnh, các mỏ dầu khí lớn có thể phân bổ ở khu vực Đông Siberia và các vùng biển phía đông của Bắc Cực.

Trong thời gian gần đây, công nghệ và cách tiếp cận trong thăm dò dầu khí đã thay đổi đáng kể. Theo Rosgeologiya, để phù hợp với thực thế, chiến lược tái tạo các nguồn tài nguyên khoáng sản nói chung cần phải có những thay đổi. Ví dụ, trong công nghệ bơm hydrocarbon trong lòng đất. Điều này rất quan trọng đối với các nhà địa chất vì chất lượng mô hình hóa vỉa và kết quả khoan sâu sẽ phụ thuộc vào điều này.

Trên 50% nguồn thu ngoại tệ quốc gia từ dầu khí

Chủ tịch Ủy ban Năng lượng, Duma quốc gia Pavel Zavalny cho biết, khoảng 50% lượng tài nguyên có thể thu hồi tại Nga đã được khai thác. Ông Zavalny cũng nhấn mạnh, với những kết quả thăm dò gần đây, các nhà khai thác dầu khí có thể tiếp tục khai thác thêm 50% trữ lượng còn lại. Ông Zavalny cho rằng, có thể sau 30 năm nữa thế giới sẽ không còn nhu cầu dầu thô của Nga, mà chuyển sang tiêu thụ nhiều hơn khí đốt. Do đó, Nga cần phải tiếp tục khai thác và xuất khẩu dầu thô chừng nào nhu cầu dầu vẫn còn.

Hiện nay, nguồn thu thuế khai thác khoáng sản đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với ngân sách quốc gia. Theo Rosnedra, thuế từ hoạt động khai thác mỏ đóng góp 25% trong cơ cấu ngân sách. Sau quá trình phát triển mỏ, nguồn thu này sẽ được phân bổ cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, lương hưu và trợ cấp xã hội nhà nước.

Hơn 50% nguồn thu ngoại tệ của Nga đến từ dầu khí. Dữ liệu này được Ủy ban năng lượng, Duma quốc gia công bố trong buổi thảo luận về Đề án phát triển tổng thể ngành công nghiệp dầu khí LB Nga đến năm 2035. Đây là lý do tại sao sản xuất dầu thô đóng vai trò quan trọng đối với ngân sách liên bang và khu vực. Và để tăng cường nguồn thu cho ngân sách, một số đề xuất tăng cường thu thuế từ hoạt động sản xuất dầu khí đã được các quan chức nhà nước đưa ra. Trong số đó có đề xuất xem xét mở rộng chế độ thu thuế mới đối với toàn bộ ngành công nghiệp dầu khí từ năm 2022 của Thống đốc Khu tự trị Khanty-Mansiysk.

Tiến Thắng

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 23:00