Khi nào sản lượng khai thác dầu thô của Nga đạt đỉnh?

10:46 | 19/08/2021

4,214 lượt xem
|
(PetroTimes) - Cục điều tiết năng lượng, Bộ Năng lượng LB Nga mới đây đã có bài viết phân tích về triển vọng khai thác dầu thô tại Nga. Trữ lượng dầu thô có thể thu hồi với chi phí thấp trên thế giới đang suy giảm ở tất cả các quốc gia sản xuất dầu hàng đầu thế giới, trong đó có Nga. Đồng thời, giới chuyên gia cho rằng, chi phí khai thác các trữ lượng khó thu hồi cao, khiến việc sản xuất dầu với giá hiện tại sẽ không mang lại lợi nhuận cho các nhà sản xuất.
Khi nào sản lượng khai thác dầu thô của Nga đạt đỉnh?

Trữ lượng khó thu hồi

Một trong những vấn đề quan trọng nhất của ngành dầu khí toàn cầu là duy trì chi phí phát triển các trữ lượng dầu khó thu hồi. Giới phân tích cho rằng, trữ lượng này sẽ không hấp dẫn người mua nếu dầu thô được thay thế nhanh chóng bởi các loại năng lượng khác như khí đốt, hydro và các nguồn NLTT. Trong tương lai, sẽ có thời điểm mà các nhà sản xuất hạn chế khai thác trữ lượng dầu khó thu hồi khi mà chi phí đầu tư phát triển mỏ không mang lại hiệu quả. Đối với Nga, điều này đang xảy ra khi các công ty dầu khí nước ngoài sở hữu công nghệ hiện đại để khai thác trữ lượng dầu khó thu hồi không thể chuyển giao công nghệ cho phía Nga vì các lệnh trừng phạt của Mỹ/phương Tây.

Giới chuyên gia nhận định, tình trạng trì trệ lâu dài trong ngành dầu khí có thể thay đổi cơ bản tất cả các nền tảng của nền kinh tế Nga. Sản lượng khai thác dầu thô của Nga sẽ không đạt đỉnh ngay lập tức mà sẽ tăng chậm dần trong nhiều năm cho đến thời điểm mà các nhà sản xuất nhận ra rằng tiêu thụ dầu thô bắt đầu giảm. Vào cuối những năm 2000, sản lượng dầu khai thác của Nga đã được dự báo đạt đỉnh. Tuy nhiên, sản lượng thực tế sau đó đã tăng thêm 10%. Tài nguyên dầu khó thu hồi có trữ lượng lớn trong hệ tầng Bazhenov ở Nga hoàn toàn có thể trở thành một nguồn khai thác mới, tương tự như sản xuất dầu đá phiến tại Mỹ, nơi mà tổng sản lượng khai thác đã vượt qua mức đỉnh sau gần 40 năm.

Một số quốc gia trên thế giới đã qua giai đoạn đỉnh cao về sản xuất dầu, trong số đó có cả những nhà sản xuất hàng dầu. Ví dụ như tại Mexico, quốc gia từ lâu được coi là một trong nhà sản xuất dầu chính ở châu Mỹ. Kể từ năm 2008, sản lượng khai thác của nước này đã sụt giảm đều đặn. Trước Mexico, Vương quốc Anh cũng đã đạt đỉnh sản lượng. Trung Quốc đạt sản lượng cao nhất là 4,3 triệu thùng/ngày vào năm 2015, sau đó suy giảm và ổn định ở mức 3,8 - 3,9 triệu thùng/ngày, trong khi tiêu thụ trong nước ngày càng gia tăng.

Sau suy thoái là ổn định

Theo dự báo phát triển ngành dầu mỏ của Bộ phát triển kinh tế LB Nga ban hành vào tháng 04/2021, sản lượng khai thác dầu thô của Nga cần duy trì ổn định sau khi sụt giảm xuống mức 512 triệu tấn trong năm 2020. Sau khi thỏa thuận OPEC+ kết thúc (dự kiến là trong năm 2022), sản xuất dầu thô tại Nga sẽ tăng trở lại. Theo kịch bản cơ sở, sản lượng sẽ tăng 7,3% lên 550 triệu tấn/năm. Đến năm 2023-2024, sản lượng khai thác sẽ đạt mốc 560 triệu tấn, thấp hơn mức của năm 2019 là 568 triệu tấn. Theo Bộ tài nguyên LB Nga, thời gian khai thác trữ lượng dầu còn lại ở Nga ở mức sản lượng hiện tại là 59 năm; đối với khí đốt thiên nhiên là 103 năm. Bộ này lưu ý rằng cần phải phát triển công tác thăm dò địa chất, kể cả ở những khu vực xa xôi, khó tiếp cận.

Cách mạng địa chất

Trong năm 2020, Rosgeologiya đã tiến hành nhiều cuộc khảo sát địa chất để xác định ranh giới bên ngoài thềm lục địa Bắc Cực. Các chuyên gia đã phát hiện ra một lớp trầm tích dày, lớn có tiềm năng dầu khí trên Biển Laptev. Trữ lượng dầu khí của lớp trầm tích được tính toán là tương đương với các trung tâm dầu khí ở Tây Siberia. Sự kiện địa chất này có thể sẽ trở thành một cuộc cách mạng thực sự trong tương lai. Khu vực các mỏ dầu và khí đốt tiềm năng trên thềm lục địa Bắc Cực cần được nghiên cứu thêm và cần được khảo sát trữ lượng với mật độ cao hơn. Cơ quan liên bang về sử dụng lòng đất (Rosnedra) ủng hộ đề xuất của Rosgeologiya. Việc khảo sát địa chất tại Bắc Cực gặp hạn chế đáng kể khi mùa hè ở đây chỉ kéo dài một tháng rưỡi. Rosnedra nhấn mạnh, các mỏ dầu khí lớn có thể phân bổ ở khu vực Đông Siberia và các vùng biển phía đông của Bắc Cực.

Trong thời gian gần đây, công nghệ và cách tiếp cận trong thăm dò dầu khí đã thay đổi đáng kể. Theo Rosgeologiya, để phù hợp với thực thế, chiến lược tái tạo các nguồn tài nguyên khoáng sản nói chung cần phải có những thay đổi. Ví dụ, trong công nghệ bơm hydrocarbon trong lòng đất. Điều này rất quan trọng đối với các nhà địa chất vì chất lượng mô hình hóa vỉa và kết quả khoan sâu sẽ phụ thuộc vào điều này.

Trên 50% nguồn thu ngoại tệ quốc gia từ dầu khí

Chủ tịch Ủy ban Năng lượng, Duma quốc gia Pavel Zavalny cho biết, khoảng 50% lượng tài nguyên có thể thu hồi tại Nga đã được khai thác. Ông Zavalny cũng nhấn mạnh, với những kết quả thăm dò gần đây, các nhà khai thác dầu khí có thể tiếp tục khai thác thêm 50% trữ lượng còn lại. Ông Zavalny cho rằng, có thể sau 30 năm nữa thế giới sẽ không còn nhu cầu dầu thô của Nga, mà chuyển sang tiêu thụ nhiều hơn khí đốt. Do đó, Nga cần phải tiếp tục khai thác và xuất khẩu dầu thô chừng nào nhu cầu dầu vẫn còn.

Hiện nay, nguồn thu thuế khai thác khoáng sản đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với ngân sách quốc gia. Theo Rosnedra, thuế từ hoạt động khai thác mỏ đóng góp 25% trong cơ cấu ngân sách. Sau quá trình phát triển mỏ, nguồn thu này sẽ được phân bổ cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, lương hưu và trợ cấp xã hội nhà nước.

Hơn 50% nguồn thu ngoại tệ của Nga đến từ dầu khí. Dữ liệu này được Ủy ban năng lượng, Duma quốc gia công bố trong buổi thảo luận về Đề án phát triển tổng thể ngành công nghiệp dầu khí LB Nga đến năm 2035. Đây là lý do tại sao sản xuất dầu thô đóng vai trò quan trọng đối với ngân sách liên bang và khu vực. Và để tăng cường nguồn thu cho ngân sách, một số đề xuất tăng cường thu thuế từ hoạt động sản xuất dầu khí đã được các quan chức nhà nước đưa ra. Trong số đó có đề xuất xem xét mở rộng chế độ thu thuế mới đối với toàn bộ ngành công nghiệp dầu khí từ năm 2022 của Thống đốc Khu tự trị Khanty-Mansiysk.

Tiến Thắng

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 145,000 148,000
Hà Nội - PNJ 145,000 148,000
Đà Nẵng - PNJ 145,000 148,000
Miền Tây - PNJ 145,000 148,000
Tây Nguyên - PNJ 145,000 148,000
Đông Nam Bộ - PNJ 145,000 148,000
Cập nhật: 08/11/2025 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,640 14,840
Miếng SJC Nghệ An 14,640 14,840
Miếng SJC Thái Bình 14,640 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,540 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,540 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,540 14,840
NL 99.99 13,870
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,870
Trang sức 99.9 14,130 14,730
Trang sức 99.99 14,140 14,740
Cập nhật: 08/11/2025 08:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,464 14,842
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,464 14,843
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,433 1,458
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,433 1,459
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,418 1,448
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,866 143,366
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,261 108,761
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,124 98,624
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,987 88,487
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,077 84,577
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,038 60,538
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Cập nhật: 08/11/2025 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16521 16789 17368
CAD 18105 18380 18994
CHF 31908 32289 32933
CNY 0 3470 3830
EUR 29726 29998 31021
GBP 33659 34047 34989
HKD 0 3252 3454
JPY 164 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14461 15050
SGD 19642 19923 20446
THB 728 792 845
USD (1,2) 26044 0 0
USD (5,10,20) 26085 0 0
USD (50,100) 26114 26133 26358
Cập nhật: 08/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,118 26,118 26,358
USD(1-2-5) 25,074 - -
USD(10-20) 25,074 - -
EUR 29,928 29,952 31,112
JPY 168.34 168.64 175.86
GBP 34,116 34,208 35,038
AUD 16,812 16,873 17,321
CAD 18,332 18,391 18,930
CHF 32,266 32,366 33,053
SGD 19,801 19,863 20,493
CNY - 3,645 3,744
HKD 3,331 3,341 3,426
KRW 16.71 17.43 18.73
THB 777.45 787.05 837.86
NZD 14,468 14,602 14,956
SEK - 2,706 2,787
DKK - 4,004 4,123
NOK - 2,541 2,617
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,903.02 - 6,626.2
TWD 768.46 - 925.94
SAR - 6,912.77 7,241.79
KWD - 83,600 88,470
Cập nhật: 08/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,135 26,138 26,358
EUR 29,794 29,914 31,044
GBP 33,939 34,075 35,042
HKD 3,318 3,331 3,438
CHF 32,043 32,172 33,062
JPY 167.84 168.51 175.69
AUD 16,732 16,799 17,335
SGD 19,823 19,903 20,442
THB 791 794 830
CAD 18,308 18,382 18,914
NZD 14,581 15,088
KRW 17.42 19.04
Cập nhật: 08/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26162 26162 26358
AUD 16703 16803 17729
CAD 18285 18385 19399
CHF 32145 32175 33761
CNY 0 3658.5 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29905 29935 31658
GBP 33954 34004 35765
HKD 0 3390 0
JPY 167.88 168.38 178.93
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14573 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19796 19926 20658
THB 0 757.8 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14640000 14640000 14840000
SBJ 14000000 14000000 14840000
Cập nhật: 08/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,130 26,180 26,358
USD20 26,130 26,180 26,358
USD1 23,848 26,180 26,358
AUD 16,745 16,845 17,981
EUR 30,042 30,042 31,391
CAD 18,226 18,326 19,661
SGD 19,869 20,019 20,507
JPY 168.32 169.82 174.64
GBP 34,045 34,195 35,008
XAU 14,638,000 0 14,842,000
CNY 0 3,543 0
THB 0 793 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 08/11/2025 08:00