Khai thông những “điểm nghẽn”

13:00 | 18/02/2020

217 lượt xem
|
(PetroTimes) - TS Trần Du Lịch, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, cho rằng: “Năm 2020, nền kinh tế tiếp tục phát triển nhưng vẫn tồn tại những điểm nghẽn. Hy vọng Việt Nam trong 10 năm tới phát triển cao hơn nhưng phải khai thông được những điểm nghẽn về thể chế và nguồn lực”.

Doanh nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn

Năm 2019 khép lại với dấu ấn đậm nét của kinh tế trong nước. Quy mô kinh tế của Việt Nam tăng nhanh, lần đầu tiên lọt vào top 50 nền kinh tế thế giới xét về quy mô; tốc độ phát triển của doanh nghiệp lớn rất nhanh. Trong bối cảnh thương mại toàn cầu đi xuống, xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam vẫn tăng trưởng tới 8%. Đáng ghi nhận là các doanh nghiệp tư nhân trong nước xuất khẩu ngoài nhiều hơn, thậm chí có doanh nghiệp tư nhân đã xuất khẩu cả máy móc.

khai thong nhung diem nghen
Khai thông những “điểm nghẽn”

Mặc dù đạt nhiều kết quả ấn tượng, song phân tích tình hình chung của thế giới cũng như trong nước, các chuyên gia kinh tế nhận định: Năm 2020 sẽ là năm gian nan, thậm chí khó khăn hơn với doanh nghiệp vì những khó khăn nội tại chưa thể giải quyết trong khi xu thế kinh tế thế giới đang giảm tốc. Quy mô nền kinh tế Việt Nam đã tăng nhanh, nhưng “sức khỏe” của doanh nghiệp và nền kinh tế đang bộc lộc những vấn đề cần giải quyết. Tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2019 cũng như nhiều năm trước rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, số lượng tồn kho của khu vực này hiện rất cao. Xuất khẩu của Việt Nam sụt giảm, trừ thị trường Mỹ; 70% kim ngạch xuất khẩu vẫn thuộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 30% GDP của Việt Nam thuộc khu vực hộ kinh tế gia đình. Đặc biệt, môi trường kinh doanh có cải thiện nhưng hiệu quả vẫn chưa cao. Môi trường kinh doanh mới đứng thứ 5 trong số các nước thuộc ASEAN, hành trình còn rất xa để lọt vào top 4 ASEAN như mục tiêu đề ra.

Kinh tế tăng trưởng nhờ những đóng góp rất lớn của cộng đồng doanh nghiệp. Thế nhưng, doanh nghiệp vẫn được nhận định đang đứng trước vô vàn khó khăn. Vậy phải làm gì để giúp doanh nghiệp gỡ khó? Đây là câu hỏi không phải chỉ bây giờ mà đã được đặt ra từ lâu, nhưng không thể giải quyết trong “một sớm một chiều”.

Giải pháp cấp bách nhất hiện nay, theo các chuyên gia kinh tế, vẫn là tìm cách tháo gỡ những điểm nghẽn về chính sách, điểm nghẽn đầu tư công cũng như các quy định chồng chéo trong kinh doanh, tạo động lực cho kinh tế nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng phát triển.

Nhấn mạnh về điều này, TS Trần Du Lịch từng nói, kinh tế Việt Nam thời điểm này so với 5 năm trước đã tốt hơn, những yếu tố từng gây bất ổn kinh tế vĩ mô như ngân hàng từng bị coi là “quả bom nổ chậm” hiện nay đã cực kỳ ổn định. Thế nhưng, 5 năm trước, nhiều doanh nghiệp kêu thiếu vốn và hiện nay vẫn kêu thiếu vốn. Nền kinh tế không thiếu vốn nhưng doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận được vốn. Năm 2020, nền kinh tế tiếp tục phát triển nhưng vẫn tồn tại những điểm nghẽn và những điểm nghẽn càng để lâu càng khó gỡ. Hy vọng Việt Nam trong 10 năm tới phát triển cao hơn nhưng phải khơi thông được thể chế và nguồn lực.

Hoàn thiện thể chế thị trường tài chính

Để giải quyết vấn đề nguồn lực cho nền kinh tế thì việc hoàn thiện thể chế thị trường tài chính là rất quan trọng. Theo TS Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính ngân hàng, thị trường tài chính (TTTC) Việt Nam năm 2019 ở 3 lĩnh vực ngân hàng (NH), chứng khoán và bảo hiểm phát triển khả quan. Bình quân quy mô thị trường tăng trên 12% cho cả 3 lĩnh vực theo hướng lành mạnh, chuẩn mực tốt hơn và phù hợp thông lệ quốc tế hơn. Giá cổ phiếu của ngành NH, bảo hiểm trên sàn chứng khoán tăng khoảng 17%, cao hơn mức bình quân của thị trường tới 7,7%.

Tuy nhiên, thách thức đối với TTTC vẫn đang ở phía trước. TS Cấn Văn Lực cho rằng, TTTC vẫn còn mất cân đối, tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản hệ thống và đảm nhận cả vai trò chính trong cung ứng vốn cho nền kinh tế, dẫn đến tiềm ẩn rủi ro về kỳ hạn, thanh khoản (do quy mô tín dụng khá lớn và gần 50% nguồn vốn trung và dài hạn vẫn từ hệ thống tổ chức tín dụng). Hiện cũng chưa có nghị định về thị trường mua bán nợ trong bối cảnh cần đa dạng hóa nhà đầu tư, định chế tài chính nhằm phân bổ rủi ro hợp lý hơn. Một số vướng mắc liên quan đến việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn, cách hiểu và áp dụng khác nhau trong công tác xét xử, thi hành án theo Nghị quyết 42 của Quốc hội, khiến tiến trình xử lý nợ xấu, đấu giá tài sản bảo đảm còn nhiều khó khăn. Các NHTM vẫn gặp khó khăn trong tăng vốn. Hệ số an toàn vốn (CAR) của toàn hệ thống vẫn chưa đạt chuẩn an toàn. Từ năm 2020, khi các NHTM phải tuân thủ Thông tư 41/2016/TT-NHNN của NHNN, hệ số CAR cần tính toán đầy đủ theo Basel II, hệ số CAR của các NHTM sẽ thấp hơn nhiều. Trong khi đó, nhiều NHTM phải đối mặt với những thách thức lớn trong việc tăng vốn.

Trước những vấn đề đó, TS Cấn Văn Lực nhấn mạnh: Cần khẩn trương hoàn thiện thể chế, giúp TTTC năm 2020 tích cực và lành mạnh hơn, qua đó đóng góp quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế. Cụ thể, năm 2020, Việt Nam cần khẩn trương hoàn thiện thể chế hệ thống tài chính, trong đó cần ban hành nghị định về thị trường mua bán nợ, tháo gỡ vướng mắc liên quan đến xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc hội. Đặc biệt, cần thực hiện quyết liệt các biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn chủ sở hữu cho các NHTM, giảm thiểu thủ tục hành chính trong xét duyệt phương án bán cổ phần cho cổ đông chiến lược, cho phép giữ lại cổ tức, phát hành cổ phiếu cho cán bộ, nhân viên. Việc cần làm nữa là xây dựng cơ chế lâu dài về biện pháp tăng vốn cho các NHTM (thay vì xem xét từng năm) nhằm giảm thiểu các thủ tục hành chính. Chúng ta cũng cần có khung chính sách và biện pháp cụ thể nhằm hạn chế rủi ro hệ thống, tăng khả năng chống chịu của hệ thống tài chính đối với các cú sốc bên ngoài, nhất là tăng dự trữ ngoại hối, đẩy nhanh xử lý nợ xấu, quản lý rủi ro theo tiêu chuẩn quốc tế...

Năm 2020 là năm cuối thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2016-2020) và tạo “bàn đạp” cho chiến lược phát triển giai đoạn tiếp theo. Có thế thấy, những thách thức của nền kinh tế Việt Nam không kém gay gắt trong năm 2020 và những năm tiếp theo như: Chất lượng tăng trưởng; những điểm “nghẽn” của nền kinh tế; khả năng thích ứng của doanh nghiệp trong nước trước tác động quá nhanh của CMCN 4.0, nhất là các ngành nghề kinh doanh truyền thống; kinh tế và thương mại toàn cầu tiềm ẩn nhiều bất ổn...

Tuy nhiên, bên cạnh đó, những nỗ lực thay đổi về mọi mặt hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững đang mang lại nhưng hy vọng lớn. Hơn bao giờ hết, nền kinh tế Việt Nam đang đòi hỏi phải nhanh chóng khai thông những “điểm nghẽn” về thể chế và nguồn lực, nếu không sẽ đánh nắm bắt và tận dụng những cơ hội phát triển mới.

Năm 2020 cần khẩn trương hoàn thiện thể chế hệ thống tài chính, trong đó cần ban hành nghị định về thị trường mua bán nợ, tháo gỡ vướng mắc liên quan đến xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc hội. Đặc biệt, cần thực hiện quyết liệt các biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn chủ sở hữu cho các NHTM....

Đức Minh

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Hà Nội - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Đà Nẵng - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Miền Tây - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Tây Nguyên - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Đông Nam Bộ - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Cập nhật: 05/11/2025 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,550 ▼70K 14,750 ▼70K
Miếng SJC Nghệ An 14,550 ▼70K 14,750 ▼70K
Miếng SJC Thái Bình 14,550 ▼70K 14,750 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,450 ▼70K 14,750 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,450 ▼70K 14,750 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,450 ▼70K 14,750 ▼70K
NL 99.99 13,780 ▼70K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,780 ▼70K
Trang sức 99.9 14,040 ▲200K 14,640 ▼170K
Trang sức 99.99 14,050 ▲200K 14,650 ▼170K
Cập nhật: 05/11/2025 17:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,455 ▼7K 14,752 ▼70K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,455 ▼7K 14,753 ▼70K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,427 ▼7K 1,452 ▼7K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,427 ▼7K 1,453 ▲1307K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,412 ▼7K 1,442 ▼7K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,272 ▼693K 142,772 ▼693K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 100,811 ▼525K 108,311 ▼525K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 90,716 ▼476K 98,216 ▼476K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,621 ▼427K 88,121 ▼427K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,727 ▼408K 84,227 ▼408K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,787 ▼292K 60,287 ▼292K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Cập nhật: 05/11/2025 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16550 16819 17390
CAD 18108 18383 18994
CHF 31848 32229 32877
CNY 0 3470 3830
EUR 29608 29879 30905
GBP 33534 33922 34861
HKD 0 3255 3456
JPY 164 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14566 15155
SGD 19610 19891 20413
THB 724 787 840
USD (1,2) 26057 0 0
USD (5,10,20) 26098 0 0
USD (50,100) 26127 26146 26351
Cập nhật: 05/11/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,131 26,131 26,351
USD(1-2-5) 25,086 - -
USD(10-20) 25,086 - -
EUR 29,843 29,867 31,001
JPY 168.25 168.55 175.58
GBP 33,902 33,994 34,787
AUD 16,847 16,908 17,347
CAD 18,356 18,415 18,940
CHF 32,234 32,334 33,011
SGD 19,761 19,822 20,441
CNY - 3,646 3,743
HKD 3,335 3,345 3,427
KRW 16.81 17.53 18.86
THB 773.44 782.99 833.15
NZD 14,598 14,734 15,082
SEK - 2,709 2,787
DKK - 3,994 4,109
NOK - 2,542 2,616
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,883.54 - 6,599.25
TWD 770.79 - 927.44
SAR - 6,920 7,243.82
KWD - 83,601 88,404
Cập nhật: 05/11/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,130 26,131 26,351
EUR 29,630 29,749 30,877
GBP 33,620 33,755 34,731
HKD 3,317 3,330 3,437
CHF 31,917 32,045 32,947
JPY 167.83 168.50 175.58
AUD 16,682 16,749 17,295
SGD 19,764 19,843 20,380
THB 786 789 824
CAD 18,304 18,378 18,909
NZD 14,584 15,081
KRW 17.45 19.07
Cập nhật: 05/11/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26110 26110 26351
AUD 16721 16821 17743
CAD 18284 18384 19398
CHF 32097 32127 33701
CNY 0 3658.3 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29785 29815 31541
GBP 33828 33878 35646
HKD 0 3390 0
JPY 167.88 168.38 178.93
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14673 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19765 19895 20622
THB 0 753.1 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14500000 14500000 15700000
SBJ 13000000 13000000 15700000
Cập nhật: 05/11/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,149 26,199 26,351
USD20 26,149 26,199 26,351
USD1 26,149 26,199 26,351
AUD 16,778 16,878 17,991
EUR 29,933 29,933 31,250
CAD 18,250 18,350 19,657
SGD 19,832 19,982 20,510
JPY 168.44 169.94 174.53
GBP 33,859 34,009 35,050
XAU 14,498,000 0 14,702,000
CNY 0 3,542 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 05/11/2025 17:00