Khắc khoải một nỗi đau

16:25 | 15/06/2017

558 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ở xóm 9, xã Cát Văn (Thanh Chương, Nghệ An) có một người phụ nữ chưa từng cầm súng nhưng đang mang nặng nỗi đau của chiến tranh khi người thân không về. Nỗi đau chẳng thể nguôi ngoai mà lớn dần theo năm tháng, trở thành nỗi khắc khoải trong tim...  

Trong những ngày tháng 4, vợ chồng bà Nguyễn Thị Xuân ngày nào cũng ra vườn lấy nải chuối, chùm ổi hay quả dứa dâng lên ban thờ bố mẹ và các anh, cầu mong linh hồn của những người anh ngã xuống ở chiến trường được thanh thản. Bà tâm sự: “Mẹ tôi là Mẹ Việt Nam Anh hùng, 3 anh của tôi đều là liệt sĩ hy sinh ở chiến trường miền Nam, cả 3 đều chưa tìm thấy mộ. Những ngày cuối đời mẹ cứ khắc khoải điều này và ngỏ ý muốn tôi tiếp tục tìm kiếm và chăm sóc hương khói. Nhưng chiến trường rộng lớn với bao thay đổi, nghĩa trang với vô số bia mộ chưa biết tên, biết các anh ở chốn nào mà tìm?”.

Câu chuyện gia đình bà Xuân rất dài cùng bao nỗi éo le, ngang trái. Cụ Nguyễn Thị Hồ (SN 1911) - mẹ bà Xuân gặp phải nỗi bất hạnh khi chồng qua đời sớm, cậu con trai Hoàng Đình Mạo lúc ấy còn nhỏ tuổi. Cảnh mẹ góa, con côi cơ cực trăm bề, người mẹ trẻ ấy quyết định đi bước nữa và lần lượt sinh thêm 3 người con: Nguyễn Duy Viện, Nguyễn Duy Tiếp và Nguyễn Thị Xuân. Những người con của cụ Nguyễn Thị Hồ lớn lên trong cảnh chiến tranh loạn lạc, giặc Mỹ dốc sức bình định miền Nam và đánh phá miền Bắc, gieo rắc bao nỗi tang tóc, thương đau.

Cả 3 người con trai của cụ lần lượt lên đường tòng quân, vượt dãy Trường Sơn vào miền Nam chiến đấu. Những lần tiễn con đi, người mẹ ở làng quê Cát Văn đều ngậm ngùi rơi lệ, thầm mong các con được bình an, tránh được hòn tên, mũi đạn. Cuộc chiến tàn khốc, cuộc đời lại bao nỗi trớ trêu, càng trông ngóng lại càng bặt tăm, rồi người mẹ già ấy lần lượt nhận 3 tờ giấy báo tử. Mỗi lần nhận là một lần quỵ ngã và một lần gượng dậy để trông mong, hy vọng...

khac khoai mot noi dau
Vợ chồng bà Nguyễn Thị Xuân dâng lễ trước bàn thờ bố mẹ và các anh trai là liệt sĩ

Ký ức bà Nguyễn Thị Xuân vẫn còn lưu giữ cảnh nghèo của gia đình trong những năm tháng bom rơi, đạn nổ. Bữa ăn hằng ngày sắn, khoai là chủ yếu, bữa cơm trắng luôn là một giấc mơ, mỗi năm chỉ có vài lần vào dịp tết. Anh cả Hoàng Đình Mạo phần lớn sống cùng bên nội nên anh em ít gặp nhau, còn với anh Viện và anh Tiếp sống cùng một mái nhà tranh với bao kỷ niệm tuổi thơ êm đềm. Hai người anh luôn yêu chiều em gái út, nhường cho em những miếng ăn ngon, đỡ đần mọi công việc và dạy em tập viết. Anh Viện lên đường nhập ngũ, lúc chia tay còn dặn hai em chăm giúp mẹ việc nhà. Anh Tiếp một buổi đến trường, một buổi vào rừng đốn củi về bán, tự lo tiền học và tiền mua sách vở, quần áo cho cả hai anh em. Anh mong ước trở thành thầy giáo để dạy chữ cho trẻ em nghèo. Nhưng cuộc chiến ngày một khốc liệt, anh Tiếp phải tạm gác lại ước mơ để lên đường đánh giặc. Nắm chặt tay em gái, người anh như rưng rưng: “Vậy là các anh đều đi chiến trường, chiến tranh không nói trước được điều gì, tất cả lại dồn lên vai em gái, cố gắng em nhé...”. Ba người anh vào chiến trường, bà Xuân và người mẹ già tiếp tục sống những ngày vất vả, khó khăn, lòng mang nặng nỗi thấp thỏm, lo âu và đợi chờ, hy vọng.

Mùa xuân năm 1972, một điều bất ngờ đã đến khi anh Viện và anh Tiếp ở hai đơn vị khác nhau nhưng được về phép một lúc. Mẹ già và em gái mừng vui khôn xiết, vì cả hai đều khỏe mạnh và lành lặn, toát lên một dáng vẻ phong trần. Bà Xuân tìm xà phòng thơm để giặt những bộ quân phục lấm bụi đường và tỷ mẩn ngồi khâu lại những chỗ sờn rách, gửi gắm bao niềm yêu thương. Mấy ngày sau, hai anh lại lên đường, ra tận cánh đồng xa vẫn ngoái nhìn về mái nhà tranh của mẹ...

Cụ Nguyễn Thị Hồ lại tiếp tục chuỗi tháng năm đợi chờ và hy vọng, ngày thống nhất đất nước vẫn không thấy các anh về, tin tức cũng như bóng chim, tăm cá. Người chồng thứ hai qua đời đã lâu, con trai cả Hoàng Đình Mạo có giấy báo tử đã mấy năm, còn Nguyễn Duy Viện và Nguyễn Duy Tiếp đang ở đâu mà không thấy về, cũng không thư từ cho mẹ và em? Điều ấy trở thành nỗi khắc khoải thường ngày trong tâm tư của người mẹ. Năm 1976, nghĩa là 1 năm sau ngày giải phóng, cụ lần lượt nhận 2 giấy báo tử, nỗi đau như xé nát cả tâm can. Và từ đó, người mẹ thẫn thờ như chiếc bóng, sáng - chiều bước ra ngõ đứng chờ con. Rồi đến năm 2002, cụ Nguyễn Thị Hồ bước vào tuổi 91, không còn đủ sức đợi chờ nên đã về cùng tiên tổ. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, người mẹ nắm lấy tay con gái và dặn dò: “Nếu có dịp, con hãy đi tìm và đưa các anh về...”.

Thực hiện nguyện ước của mẹ trước lúc qua đời, bà Xuân đã đi khắp nơi dò tìm đồng đội của các anh và đã vài ba lần vào vùng rừng núi Quảng Trị - Thừa Thiên - Huế tìm mộ chí. Nhưng chiến trường giờ cảnh vật đã khác, dòng chảy thời gian và cơn bể dâu đã xóa nhòa vết tích năm xưa, những khu nghĩa trang cũng đã bao lần di dời, cải tạo. Tìm mộ chí của một người không hề có một dữ liệu chỉ dẫn đã là quá khó, đằng này bà Xuân phải tìm mộ của 3 người anh, công việc ấy còn khó hơn cả mò kim nơi đáy bể. Một lần, theo đơn vị của anh Tiếp vào Trị - Thiên thăm chiến trường xưa, bà Xuân mất cả một ngày vẫn không thể lần tìm hết những tấm bia mộ. Giữa vô vàn ngôi mộ chưa biết tên, bà chợt gào lên: “Các anh ơi! Các anh ở đâu hãy chỉ lối cho em, để em đưa về với bố mẹ!”. Đáp lại chỉ có tiếng rặng thông reo trong gió, mấy chú chim sẻ đang tìm mồi chợt vỗ cánh bay đi... Mỗi chuyến đi như thế, bà Xuân nặng trĩu nỗi lòng lúc trở về, những tiếng thở dài như tiếng lòng khắc khoải suốt cả hành trình.

Năm nay đã sang tuổi 63, thời gian và gánh nặng cuộc đời khiến bà Nguyễn Thị Xuân gần như đã kiệt sức, trong khi 3 người anh liệt sĩ vẫn còn nằm đâu đó ở miền Nam. Thời gian càng lùi xa, việc kiếm tìm ngày một khó, nỗi khắc khoải càng dày thêm.

Trần Công Kiên

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc