Điều gì sẽ xảy ra sau khi Iran được dỡ bỏ các lệnh trừng phạt?

11:13 | 31/05/2021

10,642 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Truyền thông phương Tây đang rộ lên tin rằng, Iran và Mỹ sắp ký kết một thỏa thuận liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran để dỡ bỏ các lệnh trừng phạt mà chính quyền của cựu Tổng thống D.Trump đã áp đặt đối với quốc gia Hồi giáo này. Những người tham gia thị trường kỳ vọng xuất khẩu dầu của Iran sẽ được nối lại và giúp giá năng lượng giảm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nguồn cung dầu từ Iran chưa bao giờ ngừng “chảy” ra thị trường bất chấp các lệnh trừng phạt của Mỹ. Mới đây ngân hàng Goldman Sachs dự báo, giá dầu Brent sẽ tăng lên 80 USD/thùng trong quý IV năm nay.
Điều gì sẽ xảy ra sau khi Iran được dỡ bỏ các lệnh trừng phạt?

Chờ đợi giao dịch

Các cuộc đàm phán đã tiếp tục diễn ra tại Vienna vào thứ ba tuần qua giữa các bên trong thỏa thuận hạt nhân Iran - JCPOA, được ký kết vào tháng 7/2015 giữa Iran và sáu quốc gia gồm: Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Trung Quốc và Nga để đưa chương trình hạt nhân của Iran đặt dưới sự kiểm soát của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Sự kiểm soát của IAEA sẽ đảm bảo cho cộng đồng quốc tế rằng, chương trình hạt nhân của Iran sẽ hoàn toàn phục vụ mục đích hòa bình.

Năm 2018, dưới thời của cựu Tổng thống D.Trump, Mỹ đã đơn phương rút khỏi JCPOA. Phía Iran bị cáo buộc vi phạm JCPOA và tiếp tục các nỗ lực chế tạo vũ khí hạt nhân. Sau cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2020, Tổng thống Biden - người đã chỉ trích chính quyền tiền nhiệm rút khỏi thỏa thuận hạt nhân. Các cuộc đàm phán gián tiếp giữa Mỹ và Iran đã được tái khởi động với mục đích gia hạn JCPOA. Trong vòng đàm phán thứ tư giữa các bên tham gia thỏa thuận hạt nhân đã xuất hiện những dấu hiệu cho thấy các bên có thể đạt được thỏa thuận về các vấn đề cơ bản. Tổng thống Iran Hassan Rouhani cho biết, chính quyền Mỹ đã đồng ý dỡ bỏ tất cả các lệnh trừng phạt, song một số chi tiết cần được thảo luận. Ông Rouhani nhấn mạnh, có một số vấn đề vẫn đang được giải quyết, nhưng phía Mỹ đã đồng ý hủy bỏ các lệnh trừng phạt liên quan đến dầu mỏ, hóa dầu, vận tải biển, bảo hiểm, ngân hàng.

Vòng đàm phán thứ năm bắt đầu vào tuần vừa qua sẽ là vòng cuối cùng. Thỏa thuận JCPOA dự kiến sẽ được nối lại và phía Mỹ sẽ dỡ bỏ các lệnh trừng phạt đối với Iran. Các bên tham gia thị trường lo ngại rằng, việc dỡ bỏ các lệnh trừng phạt sẽ dẫn đến nguồn cung tăng mạnh và giá dầu giảm.

Lệnh cấm xuất khẩu không có ảnh hưởng

Vào tháng 5/2018, khi phía Mỹ tuyên bố rút khỏi thỏa thuận hạt nhân, sản lượng xuất khẩu dầu khí của Iran lên tới 3,2 triệu thùng dầu quy đổi/ngày, trong đó xuất khẩu dầu thô đạt 2,4 triệu thùng/ngày. Sáu tháng sau khi bị áp đặt các lệnh trừng phạt, nguồn cung dầu mỏ của Iran ra thị trường đã giảm xuống còn 1,2 triệu thùng dầu quy đổi/ngày, bao gồm 952.000 thùng dầu thô/ngày. Theo các chuyên gia phương tây, vào tháng 02/2020, xuất khẩu dầu mỏ của Iran đã giảm xuống mức thấp nhất 606.000 thùng dầu quy đổi/ngày, trong đó có 137.000 thùng dầu thô/ngày.

Các biện pháp trừng phạt của Mỹ đã khiến nền kinh tế Iran lâm vào suy thoái. Tình hình trở nên trầm trọng hơn trong đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, phía Mỹ đã không đạt được mục đích của mình là chấm dứt hoàn toàn việc xuất khẩu dầu và các sản phẩm dầu mỏ từ Iran. Iran đã bí mật xuất khẩu dầu mỏ ra nước ngoài và không cung cấp thông tin về khối lượng xuất khẩu. Một số cơ quan, tổ chức thị trường chỉ có thể ước tính khối lượng trên dựa trên những dữ liệu về sản xuất, dự trữ dầu, sản lượng vận chuyển và khối lượng nhập khẩu của các công ty nước ngoài.

Tuy nhiên, hầu hết các nhà phân tích cho rằng, xuất khẩu dầu mỏ của Iran ra thị trường đã bắt đầu tăng trưởng ổn định kể từ giữa năm 2020 và dự kiến tiếp tục tăng trưởng trong năm nay. Theo nhóm tư vấn FGE (Mỹ) vào tháng 3/2021, khối lượng xuất khẩu dầu mỏ của Iran đã đạt tối đa 1,7 triệu thùng/ngày kể từ khi phía Mỹ áp đặt các biện pháp trừng phạt năm 2018.

Các khách hàng mua dầu chính của Iran là các nhà máy lọc dầu độc lập của Trung Quốc. Bất chấp các lệnh trừng phạt của Mỹ, những khách hàng này sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong các điều khoản giao hàng hấp dẫn và chiết khấu lớn do phía Iran cung cấp. Sự hấp dẫn của dầu thô Iran đối với các nhà nhập khẩu Trung Quốc lớn đến mức, họ bất chấp những lời đe dọa trừng phạt trực tiếp từ chính quyền Mỹ đối với bất kỳ công ty nào vi phạm lệnh cấm của Mỹ.

Theo các chuyên gia độc lập từ Iran, dầu mỏ Iran chủ yếu được xuất khẩu sang Trung Quốc. Sản lượng xuất khẩu sang Trung Quốc trong tháng 3 vừa qua đạt 993.000 thùng/ngày, nhưng trong tháng 4 đã giảm xuống còn 448.000 thùng/ngày. Tiếp sau Trung Quốc, Syria là quốc gia nhập khẩu dầu lớn thứ hai của Iran. Tiếp đến là các quốc gia UAE và Malaysia. Các thương nhân từ UAE và Malaysia chủ yếu đóng vai trò trung gian. Họ mua dầu từ Iran để bán lại cho các nước khác. Ngay cả các đồng minh thân cận của Mỹ cũng mua dầu của Iran thông qua trung gian. Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ Christopher Murphy đã từng chia sẻ, thay vì ủng hộ thì các đối tác của Mỹ lại đứng về phía Iran, giúp Iran vượt qua các lệnh trừng phạt.

Trong tháng 3/2021, trong cuộc gặp với phái đoàn Trung Quốc tại Anchorage, Alaska, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken và Cố vấn An ninh quốc gia Jake Sullivan đã bày tỏ sự phản đối trước việc Trung Quốc mua dầu từ Iran. Phái đoàn Trung Quốc đã dứt khoát bác bỏ mọi yêu sách và cáo buộc từ phía Mỹ. Vào cuối tháng 3, Trung Quốc đã công khai ký thỏa thuận hợp tác 25 năm với Iran. Theo đó, Trung Quốc cam kết đầu tư 400 tỷ USD vào nền kinh tế Iran để đổi lấy nguồn cung dầu.

Để đảm bảo xuất khẩu dầu mỏ một cách an toàn, Iran đã xây dựng một đường ống dẫn dầu mới dài khoảng 1000 km tới cảng Jask, thuộc vịnh Oman, phía đông eo biển Hormuz. Điều này giúp Iran duy trì nguồn cung ra thị trường nước ngoài trong trường hợp tình hình ở Vịnh Ba Tư trở nên trầm trọng và nhất là rủi ro hoạt động hàng hải tại eo biển Hormuz bị đình trệ. Khoảng 20% tổng lượng dầu sản xuất trên thế giới cung cấp cho thị trường châu u và châu Á phải đi qua eo biển này. Xuất khẩu qua cảng Jask làm cho việc theo dõi các tàu chở dầu của Iran trở nên khó khăn hơn.

Giá dầu Brent sẽ tăng lên 80 USD trong quý IV/2021?

Ngân hàng Goldman Sachs dự báo, giá dầu Brent sẽ tăng lên 80 USD/thùng trong quý IV năm nay do nhu cầu năng lượng phục hồi nhanh chóng sau đại dịch. Theo các chuyên gia của ngân hàng này, nhu cầu sẽ vượt cung ngay cả khi xuất khẩu dầu Iran phục hồi hoàn toàn. Goldman Sachs đánh giá, khả năng giá dầu tăng là rất cao. Nhu cầu về dầu đang tăng lên khi các chiến dịch tiêm chủng ngày càng phổ biến hơn. Vì vậy, ngay cả khi Iran phục hồi hoàn toàn xuất khẩu dầu ra thị trường vào tháng 7 tới, giá dầu Brent sẽ vẫn tăng lên mức 80 USD/thùng vào quý IV sắp tới trong bối cảnh nhu cầu ở Mỹ và châu u phục hồi nhanh chóng.

Ngoài ra, OPEC+ có thể hoãn việc tăng hạn ngạch sản xuất thêm hai tháng trong nửa cuối năm 2021. Điều này sẽ đảm bảo cân bằng cung và cầu ngay cả khi Iran bắt đầu bán bớt lượng dự trữ tích lũy trên đảo Khark - nơi có cảng xuất khẩu chính và các cơ sở lưu trữ dầu lớn nhất ở Iran. Theo Citigroup, khoảng 65 triệu thùng dầu đã được tích lũy trong các kho nổi gần đảo Khark và 54 triệu thùng khác đang được lưu trữ trên bờ. Một tàu chở dầu lớp VLCC có trọng tải trên 200.000 tấn có thể vận chuyển dầu từ đảo Khark đến Ấn Độ trong vòng 10 ngày và đến Trung Quốc trong vòng 20 ngày. Hai quốc gia này vẫn là thị trường chính của dầu thô Iran.

Theo 1prime

Viễn Đông

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 119,200
AVPL/SJC HCM 117,200 119,200
AVPL/SJC ĐN 117,200 119,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,760 11,100
Nguyên liệu 999 - HN 10,750 11,090
Cập nhật: 29/06/2025 05:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.400 116.000
TPHCM - SJC 117.200 119.200
Hà Nội - PNJ 113.400 116.000
Hà Nội - SJC 117.200 119.200
Đà Nẵng - PNJ 113.400 116.000
Đà Nẵng - SJC 117.200 119.200
Miền Tây - PNJ 113.400 116.000
Miền Tây - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.400
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.700 115.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.590 115.090
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.880 114.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.650 114.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.050 86.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.040 67.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.570 48.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.120 105.620
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.920 70.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.530 75.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.990 78.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.850 43.350
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.670 38.170
Cập nhật: 29/06/2025 05:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,140 11,590
Trang sức 99.9 11,130 11,580
NL 99.99 10,820
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 11,650
Miếng SJC Thái Bình 11,720 11,920
Miếng SJC Nghệ An 11,720 11,920
Miếng SJC Hà Nội 11,720 11,920
Cập nhật: 29/06/2025 05:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16510 16778 17354
CAD 18536 18813 19432
CHF 32001 32383 33032
CNY 0 3570 3690
EUR 29944 30217 31250
GBP 34978 35372 36310
HKD 0 3193 3396
JPY 173 177 183
KRW 0 18 20
NZD 0 15492 16077
SGD 19904 20187 20716
THB 715 778 835
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 29/06/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 29/06/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 29/06/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 29/06/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,920 25,970 26,250
USD20 25,920 25,970 26,250
USD1 25,920 25,970 26,250
AUD 16,768 16,918 17,992
EUR 30,238 30,388 31,575
CAD 18,708 18,808 20,125
SGD 20,150 20,300 20,777
JPY 177.69 179.19 183.84
GBP 35,429 35,579 36,378
XAU 11,768,000 0 11,972,000
CNY 0 3,489 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 29/06/2025 05:00