Điều gì sẽ xảy ra sau khi Iran được dỡ bỏ các lệnh trừng phạt?

11:13 | 31/05/2021

10,648 lượt xem
|
(PetroTimes) - Truyền thông phương Tây đang rộ lên tin rằng, Iran và Mỹ sắp ký kết một thỏa thuận liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran để dỡ bỏ các lệnh trừng phạt mà chính quyền của cựu Tổng thống D.Trump đã áp đặt đối với quốc gia Hồi giáo này. Những người tham gia thị trường kỳ vọng xuất khẩu dầu của Iran sẽ được nối lại và giúp giá năng lượng giảm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nguồn cung dầu từ Iran chưa bao giờ ngừng “chảy” ra thị trường bất chấp các lệnh trừng phạt của Mỹ. Mới đây ngân hàng Goldman Sachs dự báo, giá dầu Brent sẽ tăng lên 80 USD/thùng trong quý IV năm nay.
Điều gì sẽ xảy ra sau khi Iran được dỡ bỏ các lệnh trừng phạt?

Chờ đợi giao dịch

Các cuộc đàm phán đã tiếp tục diễn ra tại Vienna vào thứ ba tuần qua giữa các bên trong thỏa thuận hạt nhân Iran - JCPOA, được ký kết vào tháng 7/2015 giữa Iran và sáu quốc gia gồm: Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Trung Quốc và Nga để đưa chương trình hạt nhân của Iran đặt dưới sự kiểm soát của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Sự kiểm soát của IAEA sẽ đảm bảo cho cộng đồng quốc tế rằng, chương trình hạt nhân của Iran sẽ hoàn toàn phục vụ mục đích hòa bình.

Năm 2018, dưới thời của cựu Tổng thống D.Trump, Mỹ đã đơn phương rút khỏi JCPOA. Phía Iran bị cáo buộc vi phạm JCPOA và tiếp tục các nỗ lực chế tạo vũ khí hạt nhân. Sau cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2020, Tổng thống Biden - người đã chỉ trích chính quyền tiền nhiệm rút khỏi thỏa thuận hạt nhân. Các cuộc đàm phán gián tiếp giữa Mỹ và Iran đã được tái khởi động với mục đích gia hạn JCPOA. Trong vòng đàm phán thứ tư giữa các bên tham gia thỏa thuận hạt nhân đã xuất hiện những dấu hiệu cho thấy các bên có thể đạt được thỏa thuận về các vấn đề cơ bản. Tổng thống Iran Hassan Rouhani cho biết, chính quyền Mỹ đã đồng ý dỡ bỏ tất cả các lệnh trừng phạt, song một số chi tiết cần được thảo luận. Ông Rouhani nhấn mạnh, có một số vấn đề vẫn đang được giải quyết, nhưng phía Mỹ đã đồng ý hủy bỏ các lệnh trừng phạt liên quan đến dầu mỏ, hóa dầu, vận tải biển, bảo hiểm, ngân hàng.

Vòng đàm phán thứ năm bắt đầu vào tuần vừa qua sẽ là vòng cuối cùng. Thỏa thuận JCPOA dự kiến sẽ được nối lại và phía Mỹ sẽ dỡ bỏ các lệnh trừng phạt đối với Iran. Các bên tham gia thị trường lo ngại rằng, việc dỡ bỏ các lệnh trừng phạt sẽ dẫn đến nguồn cung tăng mạnh và giá dầu giảm.

Lệnh cấm xuất khẩu không có ảnh hưởng

Vào tháng 5/2018, khi phía Mỹ tuyên bố rút khỏi thỏa thuận hạt nhân, sản lượng xuất khẩu dầu khí của Iran lên tới 3,2 triệu thùng dầu quy đổi/ngày, trong đó xuất khẩu dầu thô đạt 2,4 triệu thùng/ngày. Sáu tháng sau khi bị áp đặt các lệnh trừng phạt, nguồn cung dầu mỏ của Iran ra thị trường đã giảm xuống còn 1,2 triệu thùng dầu quy đổi/ngày, bao gồm 952.000 thùng dầu thô/ngày. Theo các chuyên gia phương tây, vào tháng 02/2020, xuất khẩu dầu mỏ của Iran đã giảm xuống mức thấp nhất 606.000 thùng dầu quy đổi/ngày, trong đó có 137.000 thùng dầu thô/ngày.

Các biện pháp trừng phạt của Mỹ đã khiến nền kinh tế Iran lâm vào suy thoái. Tình hình trở nên trầm trọng hơn trong đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, phía Mỹ đã không đạt được mục đích của mình là chấm dứt hoàn toàn việc xuất khẩu dầu và các sản phẩm dầu mỏ từ Iran. Iran đã bí mật xuất khẩu dầu mỏ ra nước ngoài và không cung cấp thông tin về khối lượng xuất khẩu. Một số cơ quan, tổ chức thị trường chỉ có thể ước tính khối lượng trên dựa trên những dữ liệu về sản xuất, dự trữ dầu, sản lượng vận chuyển và khối lượng nhập khẩu của các công ty nước ngoài.

Tuy nhiên, hầu hết các nhà phân tích cho rằng, xuất khẩu dầu mỏ của Iran ra thị trường đã bắt đầu tăng trưởng ổn định kể từ giữa năm 2020 và dự kiến tiếp tục tăng trưởng trong năm nay. Theo nhóm tư vấn FGE (Mỹ) vào tháng 3/2021, khối lượng xuất khẩu dầu mỏ của Iran đã đạt tối đa 1,7 triệu thùng/ngày kể từ khi phía Mỹ áp đặt các biện pháp trừng phạt năm 2018.

Các khách hàng mua dầu chính của Iran là các nhà máy lọc dầu độc lập của Trung Quốc. Bất chấp các lệnh trừng phạt của Mỹ, những khách hàng này sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong các điều khoản giao hàng hấp dẫn và chiết khấu lớn do phía Iran cung cấp. Sự hấp dẫn của dầu thô Iran đối với các nhà nhập khẩu Trung Quốc lớn đến mức, họ bất chấp những lời đe dọa trừng phạt trực tiếp từ chính quyền Mỹ đối với bất kỳ công ty nào vi phạm lệnh cấm của Mỹ.

Theo các chuyên gia độc lập từ Iran, dầu mỏ Iran chủ yếu được xuất khẩu sang Trung Quốc. Sản lượng xuất khẩu sang Trung Quốc trong tháng 3 vừa qua đạt 993.000 thùng/ngày, nhưng trong tháng 4 đã giảm xuống còn 448.000 thùng/ngày. Tiếp sau Trung Quốc, Syria là quốc gia nhập khẩu dầu lớn thứ hai của Iran. Tiếp đến là các quốc gia UAE và Malaysia. Các thương nhân từ UAE và Malaysia chủ yếu đóng vai trò trung gian. Họ mua dầu từ Iran để bán lại cho các nước khác. Ngay cả các đồng minh thân cận của Mỹ cũng mua dầu của Iran thông qua trung gian. Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ Christopher Murphy đã từng chia sẻ, thay vì ủng hộ thì các đối tác của Mỹ lại đứng về phía Iran, giúp Iran vượt qua các lệnh trừng phạt.

Trong tháng 3/2021, trong cuộc gặp với phái đoàn Trung Quốc tại Anchorage, Alaska, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken và Cố vấn An ninh quốc gia Jake Sullivan đã bày tỏ sự phản đối trước việc Trung Quốc mua dầu từ Iran. Phái đoàn Trung Quốc đã dứt khoát bác bỏ mọi yêu sách và cáo buộc từ phía Mỹ. Vào cuối tháng 3, Trung Quốc đã công khai ký thỏa thuận hợp tác 25 năm với Iran. Theo đó, Trung Quốc cam kết đầu tư 400 tỷ USD vào nền kinh tế Iran để đổi lấy nguồn cung dầu.

Để đảm bảo xuất khẩu dầu mỏ một cách an toàn, Iran đã xây dựng một đường ống dẫn dầu mới dài khoảng 1000 km tới cảng Jask, thuộc vịnh Oman, phía đông eo biển Hormuz. Điều này giúp Iran duy trì nguồn cung ra thị trường nước ngoài trong trường hợp tình hình ở Vịnh Ba Tư trở nên trầm trọng và nhất là rủi ro hoạt động hàng hải tại eo biển Hormuz bị đình trệ. Khoảng 20% tổng lượng dầu sản xuất trên thế giới cung cấp cho thị trường châu u và châu Á phải đi qua eo biển này. Xuất khẩu qua cảng Jask làm cho việc theo dõi các tàu chở dầu của Iran trở nên khó khăn hơn.

Giá dầu Brent sẽ tăng lên 80 USD trong quý IV/2021?

Ngân hàng Goldman Sachs dự báo, giá dầu Brent sẽ tăng lên 80 USD/thùng trong quý IV năm nay do nhu cầu năng lượng phục hồi nhanh chóng sau đại dịch. Theo các chuyên gia của ngân hàng này, nhu cầu sẽ vượt cung ngay cả khi xuất khẩu dầu Iran phục hồi hoàn toàn. Goldman Sachs đánh giá, khả năng giá dầu tăng là rất cao. Nhu cầu về dầu đang tăng lên khi các chiến dịch tiêm chủng ngày càng phổ biến hơn. Vì vậy, ngay cả khi Iran phục hồi hoàn toàn xuất khẩu dầu ra thị trường vào tháng 7 tới, giá dầu Brent sẽ vẫn tăng lên mức 80 USD/thùng vào quý IV sắp tới trong bối cảnh nhu cầu ở Mỹ và châu u phục hồi nhanh chóng.

Ngoài ra, OPEC+ có thể hoãn việc tăng hạn ngạch sản xuất thêm hai tháng trong nửa cuối năm 2021. Điều này sẽ đảm bảo cân bằng cung và cầu ngay cả khi Iran bắt đầu bán bớt lượng dự trữ tích lũy trên đảo Khark - nơi có cảng xuất khẩu chính và các cơ sở lưu trữ dầu lớn nhất ở Iran. Theo Citigroup, khoảng 65 triệu thùng dầu đã được tích lũy trong các kho nổi gần đảo Khark và 54 triệu thùng khác đang được lưu trữ trên bờ. Một tàu chở dầu lớp VLCC có trọng tải trên 200.000 tấn có thể vận chuyển dầu từ đảo Khark đến Ấn Độ trong vòng 10 ngày và đến Trung Quốc trong vòng 20 ngày. Hai quốc gia này vẫn là thị trường chính của dầu thô Iran.

Theo 1prime

Viễn Đông

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 146,100 149,100
Hà Nội - PNJ 146,100 149,100
Đà Nẵng - PNJ 146,100 149,100
Miền Tây - PNJ 146,100 149,100
Tây Nguyên - PNJ 146,100 149,100
Đông Nam Bộ - PNJ 146,100 149,100
Cập nhật: 24/11/2025 05:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,840 15,040
Miếng SJC Nghệ An 14,840 15,040
Miếng SJC Thái Bình 14,840 15,040
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,740 15,040
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,740 15,040
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,740 15,040
NL 99.99 14,040
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,040
Trang sức 99.9 14,300 14,930
Trang sức 99.99 14,310 14,940
Cập nhật: 24/11/2025 05:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,484 15,042
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,484 15,043
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 146 1,485
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 146 1,486
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,445 1,475
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,154 14,604
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 103,286 110,786
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,296 10,046
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,634 90,134
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,651 86,151
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,164 61,664
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cập nhật: 24/11/2025 05:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16466 16734 17309
CAD 18157 18433 19046
CHF 31928 32309 32959
CNY 0 3470 3830
EUR 29705 29977 31007
GBP 33702 34090 35024
HKD 0 3255 3458
JPY 161 165 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14468 15053
SGD 19622 19903 20437
THB 728 791 846
USD (1,2) 26088 0 0
USD (5,10,20) 26130 0 0
USD (50,100) 26158 26178 26392
Cập nhật: 24/11/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,157 26,157 26,392
USD(1-2-5) 25,111 - -
USD(10-20) 25,111 - -
EUR 30,032 30,056 31,212
JPY 165.05 165.35 172.34
GBP 34,146 34,238 35,061
AUD 16,769 16,830 17,279
CAD 18,424 18,483 19,018
CHF 32,441 32,542 33,234
SGD 19,802 19,864 20,489
CNY - 3,662 3,761
HKD 3,335 3,345 3,430
KRW 16.59 17.3 18.58
THB 776.19 785.78 836.59
NZD 14,499 14,634 14,985
SEK - 2,721 2,802
DKK - 4,017 4,135
NOK - 2,539 2,614
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,963.28 - 6,694.07
TWD 760.63 - 915.72
SAR - 6,931.88 7,260.26
KWD - 83,772 88,633
Cập nhật: 24/11/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,170 26,172 26,392
EUR 29,821 29,941 31,072
GBP 33,860 33,996 34,963
HKD 3,317 3,330 3,437
CHF 32,156 32,285 33,179
JPY 163.65 164.31 171.17
AUD 16,684 16,751 17,287
SGD 19,813 19,893 20,431
THB 791 794 829
CAD 18,376 18,450 18,984
NZD 14,498 15,004
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 24/11/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26114 26114 26392
AUD 16620 16720 17653
CAD 18353 18453 19466
CHF 32327 32357 33943
CNY 0 3671.5 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29929 29959 31695
GBP 33941 33991 35754
HKD 0 3390 0
JPY 164.6 165.1 175.66
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14554 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19771 19901 20633
THB 0 755.9 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 14780000 14780000 14980000
SBJ 13000000 13000000 14980000
Cập nhật: 24/11/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,180 26,230 26,392
USD20 26,180 26,230 26,392
USD1 23,880 26,230 26,392
AUD 16,680 16,780 17,919
EUR 30,097 30,097 31,250
CAD 18,297 18,397 19,730
SGD 19,850 20,000 20,588
JPY 165.01 166.51 171.27
GBP 34,082 34,232 35,045
XAU 14,828,000 0 15,032,000
CNY 0 3,556 0
THB 0 791 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 24/11/2025 05:00