Chứng khoán gay cấn như "đánh trận", được nhà, mất xe trong gang tấc

17:29 | 17/06/2021

904 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
17/6 là một phiên giao dịch đầy cảm xúc đối với giới đầu tư chứng khoán. Nếu như đầu phiên thị trường "tù mù", chỉ số lao dốc thì đến phiên chiều, sự hưng phấn trở lại, trào lưu khoe lãi nở rộ.

Lại "bịt mắt" dò lệnh đầu phiên

Thị trường chứng khoán vừa mở cửa phiên giao dịch ngày 17/6 thì sắc đỏ đã bao trùm khắp các sàn, chỉ số lao dốc. Tuy nhiên, đáng nói là nhà đầu tư vẫn bị "bịt mắt" và dò dẫm đoán tình hình.

Bảng giá của một số công ty chứng khoán hoàn toàn đơ, nghẽn khiến nhà đầu tư không thể cập nhật diễn biến thị trường cũng như không rõ cổ phiếu mình nắm giữ đang diễn biến ra sao.

Đó là những trải nghiệm không mấy dễ chịu khi thị trường phiên hôm nay được cho là sẽ biến động mạnh do đáo hạn phái sinh cùng với ảnh hưởng về mặt tâm lý từ diễn biến trên thị trường tài chính và hàng hóa quốc tế.

Tuy nhiên, qua 20 phút đầu, áp lực bán giảm dần đã giúp thị trường hồi phục đáng kể. Kết phiên sáng, VN-Index giảm 4,35 điểm tương ứng 0,32% còn 1.352,17 điểm; trong khi đó, VN30-Index đang đánh mất tới 11,13 điểm tương ứng 0,76% còn 1.454,45 điểm.

Chứng khoán gay cấn như đánh trận, được nhà, mất xe trong gang tấc - 1
Chứng khoán gay cấn như đánh trận, được nhà, mất xe trong gang tấc - 2
Thị trường biến động mạnh trong phiên đáo hạn phái sinh 17/6 (Ảnh chụp màn hình).

HNX-Index ngược lại, đã đạt được trạng thái xanh, nhích nhẹ 0,01 điểm lên 313,66 điểm; UPCoM-Index cũng dừng sát ngưỡng tham chiếu, giảm nhẹ 0,03 điểm còn 88,79 điểm.

Thanh khoản là yếu tố rất đáng lưu tâm với thị trường giai đoạn này. Với 423,74 triệu cổ phiếu được giao dịch trên HSX, giá trị giao dịch trên sàn này đã bó hẹp đáng kể, chỉ còn đạt 12.088,07 điểm.

HNX cũng chỉ có 82,96 triệu cổ phiếu tương ứng 1.963,14 tỷ đồng; UPCoM có 36,92 triệu cổ phiếu giao dịch tương ứng 719,26 tỷ đồng.

Có thể thấy sự thận trọng đang dâng cao trong giới đầu tư. Việc thanh khoản giảm nhưng chỉ số cũng không bị điều chỉnh quá mạnh cho thấy nhiều nhà đầu tư trong khi ưu tiên giữ vị thế tiền mặt, không vội vàng giải ngân song cũng không hoảng loạn bán ra bằng mọi giá.

Số lượng mã giảm đến hết phiên sáng đã thu hẹp còn 415 mã, có 12 mã giảm sàn, không chênh lệch nhiều so với 392 mã tăng, 33 mã tăng trần.

Nhiều cổ phiếu trong rổ VN30 bị điều chỉnh, trong đó chủ yếu là cổ phiếu ngân hàng. VPB giảm 2,1%; HDB giảm 1,8%; CTG giảm 1,6%; TCB giảm 1,4%... Những cổ phiếu lớn như VIC, MSN, VHM giảm giá cũng khiến thị trường chịu nhiều áp lực.

Ngược lại, SBT tăng 3,3%; MWG tăng 2,9%; POW tăng 2,9%; GAS tăng 1,8%; PLX tăng 1,6%. Cổ phiếu dầu khí vào nửa sau của phiên buổi sáng hồi phục khá nhanh và hầu hết đang tăng giá. PVD tăng 3,3%; PLC tăng 2,6%; PVS tăng 2,4%; PVB tăng 1,8%...

Cổ phiếu ngành nhựa, bao bì; cao su; phân bón; thủy sản đều đang thu hút dòng tiền nhà đầu tư. AAA tiếp tục tăng thêm 5,03%; HII tăng 2,44%; HKP tăng 12,64%; DGC tăng 1,6%; DCM tăng 2,54%; DPM tăng 0,94%; TSC tăng 2,19%...

Đảo chiều

Đến phiên chiều, thị trường đảo chiều một cách ngoạn mục. Lực cầu gia tăng mạnh mẽ giúp các chỉ số bật tăng. Với tâm lý vững vàng hơn, nhiều nhà đầu tư quyết định mua đuổi cổ phiếu ở mức giá xanh, giúp VN-Index có lúc đạt 1.364 điểm trước khi thu hẹp ở đợt khớp lệnh xác định giá đóng cửa (ATC), ấn định tăng 3,4 điểm tương ứng 0,25% lên 1.359,92 điểm. Trong khi đó, VN30-Index vẫn giảm 3,67 điểm tương ứng 0,25% còn 1.461,91 điểm.

HNX-Index cũng diễn biến rất tích cực, tăng 3,42 điểm tương ứng 1,09% lên 317,07 điểm; UPCoM-Index tăng 0,73 điểm tương ứng 0,82% lên 89,55 điểm.

Thanh khoản toàn phiên trên HSX đạt 22.518,03 tỷ đồng với khối lượng giao dịch đạt 768,72 triệu đơn vị. HNX có 146,32 triệu cổ phiếu giao dịch tương ứng 3.332,22 tỷ đồng; UPCoM có 68,02 triệu cổ phiếu giao dịch tương ứng 1.251,42 tỷ đồng.

Kết quả này khiến giới đầu tư vỡ òa vì gần như vượt ngoài dự đoán của số đông. Với việc VN-Index trở lại ngưỡng 1.360 điểm, nhà đầu tư có quyền hi vọng vào diễn biến tích cực hơn ở phiên ngày mai khi các quỹ ETF cơ cấu lại danh mục đầu tư.

Tổng kết lại ngày 17/6, toàn thị trường có 525 mã tăng giá, 47 mã tăng trần so với 356 mã giảm, 13 mã giảm sàn. Dòng cổ phiếu chứng khoán và ngân hàng bắt đầu cho thấy sự "hồi sinh".

Mặc dù có nhiều mã ngân hàng vẫn giảm nhưng biên độ giảm đã thu hẹp đáng kể, mức giảm đều dưới 1% như PGB, HDB, TPB, ABB, BAB, EIB, SSB. Trong khi đó, NVB tăng 5,5%; LPB tăng 5,4%; MBB tăng 3,1%; OCB tăng 2%; VBB tăng 1,1%; NAB tăng 1%...

Tương tự với cổ phiếu ngành chứng khoán. Sau khi bị bán mạnh trong phiên hôm qua, sáng nay nhiều mã cổ phiếu chứng khoán đã tăng trở lại. MBS, SBS, BSI, SHS, SSI đều tăng tốt, VND tăng 2,8%; AAS tăng 3,8%; ART tăng 4%, đặc biệt là VDS tăng kịch trần.

Cổ phiếu penny và "họ" FLC có một phiên "bung nóc". FLC, ROS tăng trần, KLF tăng 7,8%; AMD tăng 6%; HAI tăng 5,1%; ART tăng 4%.

Chứng khoán gay cấn như đánh trận, được nhà, mất xe trong gang tấc - 3
Hầu hết cổ phiếu "họ" FLC tăng mạnh (Ảnh chụp màn hình).

VN-Index phiên hôm nay có biên độ dao động trong khoảng 20 điểm. Theo đó, với những nhà đầu tư kịp bắt đáy cổ phiếu ở đầu phiên và bán ra một lượng tương ứng cổ phiếu có sẵn trong danh mục ở vùng giá cao cuối phiên (lướt T0) đã có thể thu lãi đậm, nhất là với những nhà đầu tư có giá trị tài khoản (NAV) lớn.

Trong khi có những người "không chịu được nhiệt" đã bán cắt lỗ cổ phiếu đầu phiên sáng thì cũng có người khoe lãi hàng tỷ đồng khi danh mục có những cổ phiếu bứt tốc tăng trần vào cuối phiên.

Trên thị trường chứng khoán Mỹ, đóng cửa phiên giao dịch 16/6, chỉ số Dow Jones mất 0,77%, còn 34.033,67 điểm; S&P 500 mất 0,54%, còn 4.223,7 điểm trong khi Nasdaq cũng đánh rơi 0,24%, còn 14.039,68 điểm. Chứng khoán Mỹ phản ứng với việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến sẽ bắt đầu nâng lãi suất vào năm 2023, sớm hơn một năm so với dự kiến trước đó.

Tuy vậy, Fed vẫn cam kết sẽ đợi cho tới khi "có thêm bước tiến quan trọng" về phục hồi tăng trưởng và thị trường lao động rồi mới bắt đầu chuyển sang chính sách tiền tệ phù hợp với một kinh tế hoàn toàn mở cửa. Ngoài ra, Fed cũng giữ nguyên lãi suất ở khoảng 0-0,25% và tiếp tục bơm 120 tỷ USD mỗi tháng để mua trái phiếu.

Theo Dân trí

Tin đồn thanh tra thao túng giá, cổ phiếu ngân hàng Tin đồn thanh tra thao túng giá, cổ phiếu ngân hàng "lĩnh đòn"
Cổ phiếu công ty bà Thanh Phượng gây sững sờ: Tăng giá 324% trong một nămCổ phiếu công ty bà Thanh Phượng gây sững sờ: Tăng giá 324% trong một năm
Bi hài Bi hài "bịt mắt bắt dê" giao dịch chứng khoán, HSX nhận "trát" thanh tra
Mức vốn hoá của thị trường cổ phiếu tăng 21,7%Mức vốn hoá của thị trường cổ phiếu tăng 21,7%
Cú chốt lời Cú chốt lời "thần sầu" của sếp Đất Xanh khiến cổ đông ngỡ ngàng, ngơ ngác

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 74,400 ▼400K 75,600 ▼300K
Nguyên liệu 999 - HN 74,300 ▼400K 75,500 ▼300K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 18/04/2024 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 82.100 84.100
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 82.100 84.100
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 82.100 84.100
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 18/04/2024 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,435 ▼20K 7,650 ▼15K
Trang sức 99.9 7,425 ▼20K 7,640 ▼15K
NL 99.99 7,430 ▼20K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,410 ▼20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,500 ▼20K 7,680 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,500 ▼20K 7,680 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,500 ▼20K 7,680 ▼15K
Miếng SJC Thái Bình 8,210 ▼20K 8,400 ▼10K
Miếng SJC Nghệ An 8,210 ▼20K 8,400 ▼10K
Miếng SJC Hà Nội 8,210 ▼20K 8,400 ▼10K
Cập nhật: 18/04/2024 15:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,100 84,100
SJC 5c 82,100 84,120
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,100 84,130
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,700 76,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,700 76,700
Nữ Trang 99.99% 74,600 75,900
Nữ Trang 99% 73,149 75,149
Nữ Trang 68% 49,267 51,767
Nữ Trang 41.7% 29,303 31,803
Cập nhật: 18/04/2024 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,802.74 15,962.37 16,474.59
CAD 17,830.93 18,011.04 18,589.00
CHF 27,037.08 27,310.18 28,186.55
CNY 3,419.83 3,454.37 3,565.76
DKK - 3,534.07 3,669.44
EUR 26,168.83 26,433.16 27,603.92
GBP 30,667.37 30,977.14 31,971.18
HKD 3,144.63 3,176.39 3,278.32
INR - 301.14 313.19
JPY 158.53 160.13 167.79
KRW 15.77 17.53 19.12
KWD - 81,790.33 85,060.87
MYR - 5,219.21 5,333.08
NOK - 2,258.10 2,353.99
RUB - 254.56 281.80
SAR - 6,718.10 6,986.74
SEK - 2,263.43 2,359.55
SGD 18,067.70 18,250.20 18,835.84
THB 606.11 673.46 699.26
USD 25,100.00 25,130.00 25,440.00
Cập nhật: 18/04/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,069 16,089 16,689
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,443 27,463 28,413
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,551 3,721
EUR #26,304 26,514 27,804
GBP 31,141 31,151 32,321
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.6 160.75 170.3
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,231 2,351
NZD 14,809 14,819 15,399
SEK - 2,257 2,392
SGD 18,147 18,157 18,957
THB 638.46 678.46 706.46
USD #25,145 25,145 25,440
Cập nhật: 18/04/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,100.00 25,120.00 25,440.00
EUR 26,325.00 26,431.00 27,607.00
GBP 30,757.00 30,943.00 31,897.00
HKD 3,164.00 3,177.00 3,280.00
CHF 27,183.00 27,292.00 28,129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15,911.00 15,975.00 16,463.00
SGD 18,186.00 18,259.00 18,792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17,956.00 18,028.00 18,551.00
NZD 14,666.00 15,158.00
KRW 17.43 19.02
Cập nhật: 18/04/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25225 25275 25442
AUD 16138 16188 16591
CAD 18211 18261 18666
CHF 27736 27786 28199
CNY 0 3479.7 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26808 26858 27368
GBP 31508 31558 32018
HKD 0 3115 0
JPY 162.51 163.01 167.54
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0372 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14819 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18515 18515 18872
THB 0 651.3 0
TWD 0 777 0
XAU 8220000 8220000 8390000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 18/04/2024 15:00