Cần áp thuế giá trị gia tăng với mặt hàng phân bón

13:30 | 01/10/2016

394 lượt xem
|
Việc không được áp thuế giá trị gia tăng đã khiến hoạt động sản xuất phân bón gặp vô vàn khó khăn trong bối cảnh phân bón giả, kém chất lượng đang là vấn nạn, cạnh tranh quốc tế thì ngày càng gay gắt...
can ap thue gia tri gia tang voi mat hang phan bon
Ảnh minh hoạ.

Trao đổi với báo chí tại Hội thảo quốc gia với chủ đề “Lập lại trật tự thị trường phân bón Việt Nam”, ông Nguyễn Hạc Thuý – Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam đã thẳng thắn, hoạt động sản xuất kinh doanh phân bón ở Việt Nam hiện đang tồn tại quá nhiều vấn đề bất cập. Phân bón giả, kém chất lượng đang là vấn nạn đối với nền kinh tế, với hoạt động sản xuất nông nghiệp, gây thiệt hại không chỉ với người nông dân mà còn với cả ngân sách nhà nước và doanh nghiệp sản xuất.

Nhức nhối là vậy nhưng ông Thuý cũng cho rằng hệ thống quản lý, giám sát cũng như xử lý hoạt động sản xuất, kinh doanh phân bón giả, kém chất lượng lại đang có vấn đề, thậm chí là có lợi ích nhóm, bảo kê cho các đối tượng làm phân bón giả, kém chất lượng.

Không chỉ vậy, chính sách thuế đối với hoạt động sản xuất phân bón cũng lại đang gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp. Theo đó, kể từ khi Luật 71/2014/QH13 về thuế có hiệu lực, nông dân được giảm 5% thuế giá trị gia tăng (VAT) khi mua phân bón, còn các doanh nghiệp sản xuất phân bón thì không. Và bình quân thuế VAT không được khấu trừ này, doanh nghiệp buộc phải cộng vào giá thành khiến giá phân bón tăng.

Hệ luỵ của việc này là phân bón nước ngoài được nhập khẩu ồ ạt vào Việt Nam. Trong khi trên thế giới, giá các mặt hàng đều hạ như than đá hạ 40%; khí hạ; giá phân URE hạ 41,25%; giá phân DAP hạ 25%; phân Kali hạ 19... thì trong nước, giá các nguyên liệu sản xuất phân bón là giá than, khí lại không hạ. Và cộng với việc không được áp thuế VAT khiến khả năng cạnh tranh của sản phẩm phân bón khó lại càng khó hơn, lượng phân nhập khẩu lại tăng cao hơn.

Cũng theo ông Thuý thì từ khi Luật 71 có hiệu lực từ 1/1/2015, nhập khẩu phân URE đã tăng tới 652 ngàn tấn, gấp 2 lần so với 2014 và chỉ riêng 7 tháng 2016, nhập khẩu URE đã tăng tới 360 ngàn tấn, tăng 3,5 lần so với cùng kỳ 2015 đã gây ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động sản xuất phân bón trong nước. Nhà máy Đạm Ninh Bình phải giảm công suất từ 550 ngàn tấn xuống còn 150 ngàn tấn à vẫn không bán được, thiệt hại năm 2015 và 6 tháng 2016 vào khoảng hơn 2.000 tỉ đồng; Công ty Super phosphat Lâm Thao trước đây mỗi ngày bán 3.000 tấn thì nay cũng chỉ được 2.000 tấn; Công ty phân đạm Hà Bắc công suất 550 ngàn tấn cũng phải giảm 40% công suất, giá bán giảm 20%...

Với thực tế trên, ông Thuý cho rằng cần phải sửa đổi, bổ sung Luật 71 đối với mặt hàng phân bón theo hướng có lợi cho nông dân. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước đầu tư công nghệ mới, sản xuất phân bón bảo đảm chất lượng cao, giảm giá thành sản xuất, chủ động nguồn phân bón phục vụ nông nghiệp...

Cùng đề cập đến vấn đề này, ông Bùi Minh Tiến – Tổng giám đốc Đạm Cà Mau cho hay: Kể từ khi áp dụng Luật về Thuế 71/2014 thì mặt hàng phân bón trước đây chịu thuế giá trị gia tăng thì nay chuyển thành mặt hàng không chịu áp dụng. Điều này tưởng chừng sẽ giảm giá phân bón xuống cho bà con nông dân, trước đây là 5% nhưng với các doanh nghiệp sản xuất lại không được khấu trừ đầu vào và nó khiến chi phí sản xuất tăng lên. Riêng với 2 doanh nghiệp của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, trong năm 2015, riêng thuế đầu vào không được khấu trừ so với năm trước là vào khoảng 550 tỉ đồng. Đây là con số rất lớn trong bối cảnh các đơn vị sản xuất đang gặp rất nhiều khó khăn. Và riêng 9 tháng đầu năm 2016, con số này cũng vào khoảng 300 tỉ đồng. Đặc biệt, tình hình cạnh tranh không lành mạnh của thị trường trong nước bởi tình trạng hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng dù đã có cải thiện đáng kể nhưng vẫn diễn ra rất phức tạp.

Bối cảnh như vậy đang tác động rất lớn đến các doanh nghiệp kinh doanh phân bón, trong đó có các doanh nghiệp của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Và trong bối cảnh đó, nếu các doanh nghiệp không có sự nỗ lực, cùng với sự hỗ trợ của cộng đồng và của các cơ quan quản lý nhà nước thì ngành phân bón có thể đối mặt với nguy cơ thua trên sân nhà.

“Trước thực tế trên, tôi cho rằng cần phải có báo cáo Thủ tướng Chính phủ về thay đổi việc áp dụng thuế Giá trị gia tăng đối với mặt hàng phân bón. Tức đưa mặt hàng phân bón về quy định trước đây là mặt hàng chịu thuế Giá trị gia tăng. Mức thuế có thể dao động từ 0 – 5% tùy sự tính toán của các cơ quan nhà nước để đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Bởi doanh nghiệp có tồn tại thì mới có đóng góp lâu dài hơn. Đồng thời, các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác quản lý thị trường và chúng tôi cam kết sẽ phối hợp chặt chẽ để chúng ta lành mạnh hóa thị trường phân bón, giúp thị trường này phát triển một cách bền vững hơn trong thời gian tới” – ông Tiến nói.

Thanh Ngọc

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Hà Nội - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Đà Nẵng - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Miền Tây - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Tây Nguyên - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Đông Nam Bộ - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Cập nhật: 05/11/2025 10:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,500 ▼120K 14,700 ▼120K
Miếng SJC Nghệ An 14,500 ▼120K 14,700 ▼120K
Miếng SJC Thái Bình 14,500 ▼120K 14,700 ▼120K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,400 ▼120K 14,700 ▼120K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,400 ▼120K 14,700 ▼120K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,400 ▼120K 14,700 ▼120K
NL 99.99 13,730 ▼120K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,730 ▼120K
Trang sức 99.9 13,990 ▲150K 14,590 ▼220K
Trang sức 99.99 14,000 ▲150K 14,600 ▼220K
Cập nhật: 05/11/2025 10:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 145 ▼1317K 14,702 ▼120K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 145 ▼1317K 14,703 ▼120K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,422 ▼12K 1,447 ▼12K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,422 ▼12K 1,448 ▲1302K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,407 ▼12K 1,437 ▼12K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 137,777 ▼1188K 142,277 ▼1188K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 100,436 ▼900K 107,936 ▼900K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 90,376 ▼816K 97,876 ▼816K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,316 ▼732K 87,816 ▼732K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,435 ▼700K 83,935 ▼700K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,579 ▼500K 60,079 ▼500K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Cập nhật: 05/11/2025 10:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16532 16800 17377
CAD 18119 18394 19005
CHF 31872 32253 32897
CNY 0 3470 3830
EUR 29608 29879 30907
GBP 33463 33851 34782
HKD 0 3255 3457
JPY 164 169 175
KRW 0 17 19
NZD 0 14555 15144
SGD 19598 19879 20399
THB 724 787 840
USD (1,2) 26058 0 0
USD (5,10,20) 26099 0 0
USD (50,100) 26128 26147 26351
Cập nhật: 05/11/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,115 26,115 26,351
USD(1-2-5) 25,071 - -
USD(10-20) 25,071 - -
EUR 29,816 29,840 30,989
JPY 168.84 169.14 176.3
GBP 33,863 33,955 34,766
AUD 16,771 16,832 17,285
CAD 18,344 18,403 18,939
CHF 32,215 32,315 33,012
SGD 19,746 19,807 20,434
CNY - 3,643 3,742
HKD 3,333 3,343 3,428
KRW 16.82 17.54 18.84
THB 772.13 781.67 832.51
NZD 14,545 14,680 15,036
SEK - 2,703 2,784
DKK - 3,990 4,108
NOK - 2,533 2,609
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,869.65 - 6,587.68
TWD 769.49 - 927.04
SAR - 6,917.02 7,245.11
KWD - 83,563 88,446
Cập nhật: 05/11/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,130 26,131 26,351
EUR 29,630 29,749 30,877
GBP 33,620 33,755 34,731
HKD 3,317 3,330 3,437
CHF 31,917 32,045 32,947
JPY 167.83 168.50 175.58
AUD 16,682 16,749 17,295
SGD 19,764 19,843 20,380
THB 786 789 824
CAD 18,304 18,378 18,909
NZD 14,584 15,081
KRW 17.45 19.07
Cập nhật: 05/11/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26110 26110 26351
AUD 16680 16780 17702
CAD 18300 18400 19415
CHF 32102 32132 33722
CNY 0 3656 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29770 29800 31528
GBP 33752 33802 35565
HKD 0 3390 0
JPY 168.3 168.8 179.32
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14638 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19737 19867 20596
THB 0 752.5 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14620000 14620000 14820000
SBJ 13000000 13000000 14820000
Cập nhật: 05/11/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,142 26,192 26,351
USD20 26,142 26,192 26,351
USD1 23,843 26,192 26,351
AUD 16,695 16,795 17,905
EUR 29,925 29,925 31,239
CAD 18,236 18,336 19,647
SGD 19,810 19,960 20,418
JPY 168.93 170.43 175.03
GBP 33,832 33,982 35,050
XAU 14,618,000 0 14,822,000
CNY 0 3,544 0
THB 0 788 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 05/11/2025 10:45