Bất động sản Trung Quốc: Những “bài học” hiệu quả cho Việt Nam

08:08 | 19/11/2023

98 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Những biện pháp giải cứu thị trường bất động sản Trung Quốc năm qua có thể được xem là những “bài học” hiệu quả để áp dụng cho thị trường địa ốc Việt Nam.

TS. Nguyễn Ngọc Thảo - Giảng viên Đại học Nottingham Trent (Vương Quốc Anh) cho biết, việc nghiên cứu sâu hơn về thị trường bất động sản (BĐS) Trung Quốc cũng là một cách giúp xây dựng những chính sách phù hợp, tránh nguy cơ khủng hoảng sâu cho thị trường địa ốc Việt Nam.

- Ông đánh giá ra sao về những biện pháp giải cứu thị trường bất động sản mà Trung Quốc đang áp dụng hiện nay?

Bất động sản Trung Quốc: Những “bài học” hiệu quả cho Việt Nam | Bất động sản
TS. Nguyễn Ngọc Thảo

Không được đánh giá là nghiêm trọng như khủng hoảng tài chính năm 2008, xuất phát từ việc sụt giảm giá BĐS và mất khả năng chi trả của người vay tại nước Mỹ. Tuy nhiên, khủng hoảng BĐS Trung Quốc đã gây ra nhiều quan ngại cho thị trường tài chính khu vực và thế giới.

Việc phát triển và đô thị hoá khiến nhiều hộ gia đình trẻ ở Trung Quốc chuyển từ nông thôn về các thành phố lớn. Tuy nhiên, hành lang pháp lý đã không theo kịp tốc độ phát triển của thị trường BĐS.

Nhằm ngăn ngừa hiện tượng đầu cơ BĐS, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra chính sách “3 lằn ranh đỏ” vào cuối năm 2020, để kiểm soát việc cho vay đối với các công ty BĐS. Trong khi đó, đại dịch Covid-19 đã gây ra tình trạng thất nghiệp cao và khiến thị trường BĐS khó khăn hơn.

Hệ quả là, việc khó tiếp cận nguồn vốn, sự sụt giảm giá cổ phiếu, mất khả năng trả lãi trái phiếu nước ngoài đã tạo thêm các khoản nợ của các công ty BĐS (như Tập đoàn Evergrande). Bên cạnh đó, sự sụp đổ mang tính dây chuyền khiến nhiều doanh nghiệp BĐS mất khả năng thanh khoản.

Vào tháng 11/2022, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra chính sách 16 điểm nhằm giải cứu thị trường BĐS tập trung vào giãn nợ, giảm lãi suất, sử dụng các gói cứu trợ để phục hồi thị trường. Đáng chú ý, mới đây, Chính phủ Trung Quốc chuẩn bị tung gói cứu trợ 1.000 tỷ Nhân Dân Tệ nhằm hỗ trợ cho chương trình nhà giá rẻ ở khu vực nông thôn và khó khăn.

Mặc dù vậy, sự can thiệp của Chính phủ Trung Quốc được xem là vẫn chậm hơn so với tốc độ khó khăn của các doanh nghiệp BĐS. Theo REUTERS, các chỉ số mới nhất cho thấy thị trường BĐS Trung Quốc vẫn chưa hồi phục hoàn toàn mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp giải cứu thị trường. Cụ thể, doanh số bán BĐS của Trung Quốc (tính theo diện tích sàn) đã giảm hơn 20% so với cùng kỳ năm trước.

- Theo ông, Việt Nam có thể áp dụng được những giải pháp nào từ Trung Quốc?

Việt Nam là một trong những thị trường phát triển nhanh nhất Đông Nam Á. Việc thành lập các đô thị vệ tinh xung quanh các thành phố lớn đã đạt được những bước tiến nhất định theo mục tiêu tỷ lệ 52% đô thị hóa năm 2030. Trong đó, phân khúc căn hộ dành cho người có thu nhập trung bình cũng phát triển nhanh trong những năm vừa qua.

Tuy nhiên, thị trường BĐS Việt Nam vẫn tồn tại nhiều bất cập bởi các tiêu chuẩn chưa được đồng bộ, thông tin chưa minh bạch, khung pháp lý chưa hoàn thiện. Do đó, thị trường đã có sự chững lại từ giữa năm 2022 sau khi Nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn nhằm hạn chế việc đầu cơ BĐS.

Bất động sản Trung Quốc: Những “bài học” hiệu quả cho Việt Nam | Bất động sản
Hiện giá BĐS tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM vẫn ở mức cao so với khả năng chi trả của đại đa số người dân. Ảnh:V.A

Ngoài những biện pháp giải cứu thị trường hiện nay, tôi cho rằng cần xem xét một số biện pháp bổ sung để phục hồi thị trường BĐS Việt Nam như sau:

Trước hết, cần đảm bảo các doanh nghiệp BĐS tuân thủ đầy đủ luật pháp trong quá trình kinh doanh. Một trong những biện pháp là có thể cân nhắc đưa các doanh nghiệp BĐS vào danh sách quản lý tín dụng quốc gia.

Bên cạnh đó, cần ổn định thị trường trái phiếu doanh nghiệp, góp phần giảm rủi ro trái phiếu BĐS. Tiếp đến, cần xem xét việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay BĐS dựa trên thu nhập bình quân của người lao động.

Ngoài ra, các cơ quan chức năng có thể cân nhắc việc hỗ trợ các hộ gia đình trẻ hoặc đối tượng có thu nhập thấp trong việc tiếp cận mua nhà. Ví dụ như áp dụng lãi suất cho người mua nhà lần đầu thấp hơn lãi suất mua nhà thứ hai hoặc đầu tư.

- Những tồn tại của thị trường bất động sản Việt Nam cần phải khắc phục là gì thưa ông?

Nhìn chung, giá BĐS ở Việt Nam được đánh giá là thấp so với các nước trong khu vực, tuy nhiên giá BĐS tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM vẫn ở mức cao so với khả năng chi trả của đại đa số người dân. Điều này khiến cho giấc mơ “an cư lạc nghiệp” của những người lao động có thu nhập thấp tại các đô thị, công nhân KCN ngày càng trở nên xa vời.

Mặc dù chưa bị ảnh hưởng nặng nề từ khủng hoảng thị trường BĐS như tại Trung Quốc, thị trường BĐS Việt Nam có sự chững lại nhất định từ giữa năm 2022, cho tới nay vẫn tồn tại một số bất cập như: Hành lang pháp lý chưa tương xứng với tốc độ phát triển của thị trường; thông tin thị trường BĐS thiếu thống nhất và minh bạch; hay quy hoạch đô thị thân thiện với môi trường còn chưa phù hợp. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay mua nhà ở Việt Nam hiện nay vẫn ở mức cao, hay rủi ro tiềm ẩn khủng khoảng sâu của thị trường BĐS.

- Vâng xin cảm ơn ông!

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

HoREA kiến nghị loạt giải pháp thúc đẩy tín dụng bất động sản

HoREA kiến nghị loạt giải pháp thúc đẩy tín dụng bất động sản

Ngày 13/11, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Xây dựng cùng nhiều ban ngành và 14 tổ chức tín dụng, một số doanh nghiệp bất động sản họp trực tuyến nhằm tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp phát triển thị trường bất động sản.

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 86,200 ▲1000K 87,700 ▲1000K
AVPL/SJC HCM 86,200 ▲1000K 87,700 ▲1000K
AVPL/SJC ĐN 86,200 ▲1000K 87,700 ▲1000K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,200 ▼100K 74,100 ▼100K
Nguyên liệu 999 - HN 73,100 ▼100K 74,000 ▼100K
AVPL/SJC Cần Thơ 86,200 ▲1000K 87,700 ▲1000K
Cập nhật: 09/05/2024 10:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.300 75.100
TPHCM - SJC 86.000 ▲900K 88.000 ▲600K
Hà Nội - PNJ 73.300 75.100
Hà Nội - SJC 86.400 ▲1300K 88.700 ▲1300K
Đà Nẵng - PNJ 73.300 75.100
Đà Nẵng - SJC 86.000 ▲900K 88.000 ▲600K
Miền Tây - PNJ 73.300 75.100
Miền Tây - SJC 86.600 ▲1300K 88.700 ▲1200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.300 75.100
Giá vàng nữ trang - SJC 86.000 ▲900K 88.000 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.300
Giá vàng nữ trang - SJC 86.000 ▲900K 88.000 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.300
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.200 74.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.250 55.650
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.040 43.440
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.530 30.930
Cập nhật: 09/05/2024 10:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,315 7,500
Trang sức 99.9 7,305 7,490
NL 99.99 7,310
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,380 7,530
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,380 7,530
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,380 7,530
Miếng SJC Thái Bình 8,640 ▲90K 8,850 ▲100K
Miếng SJC Nghệ An 8,640 ▲90K 8,850 ▲100K
Miếng SJC Hà Nội 8,640 ▲90K 8,850 ▲100K
Cập nhật: 09/05/2024 10:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 86,400 ▲1200K 88,700 ▲1200K
SJC 5c 86,400 ▲1200K 88,720 ▲1200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 86,400 ▲1200K 88,730 ▲1200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,300 75,000
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,300 75,100
Nữ Trang 99.99% 73,200 74,200
Nữ Trang 99% 71,465 73,465
Nữ Trang 68% 48,111 50,611
Nữ Trang 41.7% 28,594 31,094
Cập nhật: 09/05/2024 10:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,281.99 16,446.46 16,974.04
CAD 18,048.45 18,230.76 18,815.59
CHF 27,283.29 27,558.88 28,442.94
CNY 3,447.74 3,482.57 3,594.83
DKK - 3,595.35 3,733.02
EUR 26,614.65 26,883.49 28,073.91
GBP 30,945.95 31,258.53 32,261.27
HKD 3,171.19 3,203.22 3,305.98
INR - 303.85 315.99
JPY 158.51 160.11 167.77
KRW 16.07 17.86 19.48
KWD - 82,469.21 85,766.04
MYR - 5,303.21 5,418.86
NOK - 2,283.70 2,380.66
RUB - 263.77 292.00
SAR - 6,761.75 7,032.07
SEK - 2,282.03 2,378.91
SGD 18,276.04 18,460.65 19,052.85
THB 608.47 676.08 701.96
USD 25,148.00 25,178.00 25,478.00
Cập nhật: 09/05/2024 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,491 16,591 17,041
CAD 18,284 18,384 18,934
CHF 27,551 27,656 28,456
CNY - 3,481 3,591
DKK - 3,616 3,746
EUR #26,878 26,913 28,173
GBP 31,400 31,450 32,410
HKD 3,179 3,194 3,329
JPY 160.18 160.18 168.13
KRW 16.81 17.61 20.41
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,294 2,374
NZD 15,031 15,081 15,598
SEK - 2,282 2,392
SGD 18,319 18,419 19,149
THB 635.82 680.16 703.82
USD #25,228 25,228 25,478
Cập nhật: 09/05/2024 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,178.00 25,478.00
EUR 26,767.00 26,874.00 28,080.00
GBP 31,070.00 31,258.00 32,242.00
HKD 3,187.00 3,200.00 3,306.00
CHF 27,443.00 27,553.00 28,421.00
JPY 159.46 160.10 167.46
AUD 16,392.00 16,458.00 16,966.00
SGD 18,394.00 18,468.00 19,023.00
THB 670.00 673.00 701.00
CAD 18,167.00 18,240.00 18,784.00
NZD 14,988.00 15,497.00
KRW 17.77 19.44
Cập nhật: 09/05/2024 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25205 25205 25478
AUD 16544 16594 17096
CAD 18331 18381 18836
CHF 27747 27797 28359
CNY 0 3485.7 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27090 27140 27843
GBP 31539 31589 32241
HKD 0 3250 0
JPY 161.49 161.99 166.5
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.037 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15074 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18568 18618 19170
THB 0 648.7 0
TWD 0 780 0
XAU 8650000 8650000 8850000
XBJ 6800000 6800000 7320000
Cập nhật: 09/05/2024 10:45