Ngành Xây dựng triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người dân ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19

Bất động sản… đóng băng tạm thời (Bài 1)

15:25 | 27/10/2021

200 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Trong đợt dịch đầu năm (ngày 28/1-25/3/2021), thị trường bất động sản cơ bản vẫn giữ được sự ổn định, thậm chí đã có dấu hiệu phục hồi, phát triển trở lại trong quý II/2021, nhưng đợt dịch thứ 4 kéo dài đã khiến thị trường sụt giảm mạnh, dẫn đến tình trạng đóng băng.

Trong 6 tháng đầu năm 2021, thị trường bất động sản vẫn có dấu hiệu và một số chỉ số tương đối khả quan. Trong đó, về nguồn cung có 180 dự án với 55.576 căn, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2020; về lượng giao dịch có 55.335 giao dịch thành công tăng 29% so với cùng kỳ năm 2020.

Hoàn thiện pháp luật kinh doanh bất động sản, đảm bảo thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh.
Đảm bảo thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh.

Tuy nhiên, dưới tác động kéo dài và sự bùng phát mạnh của đợt dịch tiếp theo (từ cuối tháng 4, đầu tháng 5) và đặc biệt cao điểm trong cuối tháng 7, tháng 8; khi nhiều địa phương, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh thực hiện cách ly, giãn cách theo chỉ đạo của Chính phủ thì hầu hết các ngành kinh tế đều chịu ảnh hưởng nặng nề. Thị trường bất động sản trong quý III cũng gặp nhiều khó khăn hơn.

Tại nhiều địa phương, đặc biệt là tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương…, các doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh bất động sản phải tạm dừng hoạt động nên hầu như các dự án bị ngưng trệ, không có dự án được hoàn thành và mở bán; các bất động sản giao bán trên thị trường chủ yếu từ nguồn cung của các dự án mở bán trong giai đoạn trước. Theo thống kê sơ bộ, số lượng nhà ở đủ điều kiện bán khoảng 20.000 căn, tương đương khoảng 60-70% so với quý II.

Lượng giao dịch bất động sản thành công giảm mạnh so với quý II; tại các địa phương thực hiện giãn cách triệt để, hoạt động giao dịch, kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp, người dân không thực hiện được; nhiều khu vực thị trường có hiện tượng "đóng băng tạm thời". Theo thống kê sơ bộ thì tỷ lệ hấp thụ các loại bất động sản nhà ở đều chỉ đạt khoảng 40% lượng chào bán trên thị trường; riêng loại hình đất nền lượng hấp thụ đạt cao hơn, khoảng 50% lượng chào bán trên thị trường.

Còn về giá giao dịch, tại nhiều địa phương, do thực hiện giãn cách nên giao dịch bất động sản thành công hầu như không đáng kể. Tuy nhiên, giá chào bán, cho thuê bất động sản hầu như không có biến động lớn; các chủ đầu tư dự án, doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh bất động sản vẫn giữ mức giá chào bán đã thiết lập từ cuối quý II: giá căn hộ chung cư (bình dân, trung cấp, cao cấp) đều vẫn giữ giá hoặc vẫn tăng nhẹ (khoảng 1-2%); giá nhà ở riêng lẻ, đất nền giảm (khoảng 1-2%); giá mặt bằng thương mại cho thuê, căn hộ, nhà ở cho thuê mặt bằng giá giảm chung khoảng 2-3%, ngoài ra chủ cho thuê thực hiện hỗ trợ giảm giá trực tiếp 10-20% tùy theo từng điều kiện cụ thể.

Theo Bộ Xây dựng, diễn biến về giá giao dịch các loại bất động sản cho thấy rõ nét nhất về ảnh hưởng, tác động của dịch bệnh lên thị trường bất động sản Việt Nam. Cụ thể, ngay từ đầu năm, do gặp khó khăn trong hầu hết các hoạt động, lĩnh vực đầu tư, kinh doanh khác, các nhà đầu tư và kể cả người dân xem bất động sản như một kênh đầu tư an toàn, có thể bảo toàn nguồn vốn trong dài hạn. Nguồn vốn dịch chuyển vào đầu tư nhà, đất cùng với tác động của nhiều yếu tố khác đã tạo nên các cơn sốt đất nền cục bộ, nhưng xuất hiện trên diện rộng ở nhiều địa phương trên cả nước. Đỉnh điểm giá đất nền tại một số khu vực, địa phương tăng 30-50% so với thời điểm cuối năm 2020.

Cùng với sự khó khăn, thậm chí đứt gãy trong sản xuất, cung ứng giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của các dự án bất động sản tăng mạnh, đặc biệt là các sản phẩm phải nhập khẩu. Có thời điểm, giá sắt thép đã tăng xấp xỉ 30-40% so với cuối năm 2020, vật liệu xây dựng khác, như xi măng, cát, gạch... cũng tăng. Từ đó, giá thuế của hầu hết các loại hình, phân khúc bất động sản cũng tăng theo. Từ đầu năm 2021, giá bán nhà ở các phân khúc bình dân, trung cấp, cao cấp đều có xu hướng tăng, càng làm tăng khó khăn về giải quyết nhu cầu chỗ ở cho các đối tượng có thu nhập thấp.

Ngược với xu hướng tăng giá bán của hầu hết các loại hình bất động sản, do khó khăn trong các hoạt động kinh doanh, dịch vụ, du lịch, giá cho thuê các loại bất động sản lại giảm. Giá cho thuê mặt bằng thương mại giảm 10-20% thậm chí cao hơn tùy theo thời điểm, điều kiện cụ thể của từng khu vực.

Riêng về nguồn vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, qua tổng hợp của Bộ Xây dựng cho thấy, nguồn vốn đầu tư FDI vào lĩnh vực bất động sản sụt giảm mạnh, 8 tháng đầu năm 2021 mới có gần 1,6 tỷ USD vốn đăng ký, chỉ đạt 56% so với cùng kỳ năm trước.

Với sự thành công kiểm soát đợt dịch Covid-19 lần thứ 4, trong thời gian qua, hầu hết các tỉnh, thành phố đang bước vào giai đoạn nới lỏng giãn cách xã hội, áp dụng linh hoạt các biện pháp phục hồi kinh tế. Các công trình xây dựng được phép hoạt động trở lại, một số dự án bất động sản lớn cũng đang triển khai mời gọi nhà đầu tư. Hy vọng trong các tháng cuối năm, thị trường bất động sản sẽ ấm trở lại.

P.V

Tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp xây dựng Tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp xây dựng
Vinhomes Ocean Park – Một “New City” của Hà Nội Vinhomes Ocean Park – Một “New City” của Hà Nội
Thị trường bất động sản Thanh Hóa “khát” dự án đẳng cấp Thị trường bất động sản Thanh Hóa “khát” dự án đẳng cấp
"Bình thường mới" hậu Covid-19: Tầm nhìn nhà đầu tư đang hướng về đâu?

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,950 ▲100K 69,500 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 68,850 ▲100K 69,400 ▲50K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Cập nhật: 29/03/2024 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
TPHCM - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Hà Nội - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 69.200 ▲800K 70.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 51.250 ▲600K 52.650 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.700 ▲470K 41.100 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.870 ▲330K 29.270 ▲330K
Cập nhật: 29/03/2024 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,885 ▲50K 7,040 ▲50K
Trang sức 99.9 6,875 ▲50K 7,030 ▲50K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NL 99.99 6,880 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,880 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Nghệ An 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Hà Nội 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Cập nhật: 29/03/2024 16:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 69,200 ▲700K 70,450 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 69,200 ▲700K 70,550 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 69,100 ▲700K 69,950 ▲700K
Nữ Trang 99% 67,757 ▲693K 69,257 ▲693K
Nữ Trang 68% 45,721 ▲476K 47,721 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 27,322 ▲292K 29,322 ▲292K
Cập nhật: 29/03/2024 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,728.49 15,887.36 16,397.67
CAD 17,838.70 18,018.89 18,597.66
CHF 26,804.54 27,075.29 27,944.96
CNY 3,362.31 3,396.27 3,505.89
DKK - 3,514.56 3,649.29
EUR 26,020.03 26,282.86 27,447.78
GBP 30,490.41 30,798.39 31,787.64
HKD 3,088.58 3,119.77 3,219.98
INR - 296.75 308.63
JPY 158.93 160.54 168.22
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 80,424.52 83,642.95
MYR - 5,198.02 5,311.59
NOK - 2,236.06 2,331.08
RUB - 255.72 283.10
SAR - 6,594.46 6,858.36
SEK - 2,266.43 2,362.75
SGD 17,918.05 18,099.04 18,680.38
THB 601.86 668.73 694.37
USD 24,600.00 24,630.00 24,970.00
Cập nhật: 29/03/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,904 16,004 16,454
CAD 18,057 18,157 18,707
CHF 27,060 27,165 27,965
CNY - 3,395 3,505
DKK - 3,534 3,664
EUR #26,269 26,304 27,564
GBP 30,932 30,982 31,942
HKD 3,096 3,111 3,246
JPY 160.59 160.59 168.54
KRW 16.62 17.42 20.22
LAK - 0.88 1.24
NOK - 2,243 2,323
NZD 14,564 14,614 15,131
SEK - 2,268 2,378
SGD 17,939 18,039 18,639
THB 629.19 673.53 697.19
USD #24,570 24,650 24,990
Cập nhật: 29/03/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,620.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,213.00 26,318.00 27,483.00
GBP 30,653.00 30,838.00 31,788.00
HKD 3,106.00 3,118.00 3,219.00
CHF 26,966.00 27,074.00 27,917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15,849.00 15,913.00 16,399.00
SGD 18,033.00 18,105.00 18,641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,979.00 18,051.00 18,585.00
NZD 14,568.00 15,057.00
KRW 17.62 19.22
Cập nhật: 29/03/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24612 24662 25002
AUD 15963 16013 16415
CAD 18109 18159 18560
CHF 27305 27355 27767
CNY 0 3399.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26480 26530 27037
GBP 31120 31170 31630
HKD 0 3115 0
JPY 161.92 162.42 166.95
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0254 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14609 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18235 18235 18596
THB 0 642.4 0
TWD 0 777 0
XAU 7910000 7910000 8060000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 16:00