Trùng tu di tích: Sẽ hết tùy tiện?

19:00 | 14/08/2013

1,331 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Tình trạng ai cũng có thể “nhảy xổ” vào công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích, dẫn đến nhiều di tích bị trùng tu sai nguyên tắc như thời gian qua sẽ chính thức chấm dứt khi Thông tư số 18/2012/TT- BVHTTDL về vấn đề này có hiệu lực thi hành. Theo đó, chỉ những người có chuyên môn, kinh nghiệm và buộc phải có chứng nhận hành nghề và chứng chỉ hành nghề mới có thể tham gia công việc này.

Ai được phép hành nghề?

Di tích chính là những trang sử sống mang dấu ấn về sự biến động, thăng trầm của nhiều thời kỳ lịch sử, đồng thời cũng là một bộ phận quan trọng cấu thành kho tàng di sản văn hóa của dân tộc. Với một hệ thống di tích dày đặc (khoảng 4 vạn di tích) ở nước ta hiện nay thì việc quản lý nhằm bảo vệ và phát huy có hiệu quả giá trị của di tích trong cuộc sống đương đại là rất quan trọng. Thời gian qua, đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này được từng bước hoàn thiện. Công tác quản lý Nhà nước cũng ngày càng được tăng cường.

Phải chuyên nghiệp hóa đội ngũ làm công tác di sản

Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL Đặng Thị Bích Liên, công tác quản lý và phát huy giá trị của di tích thời gian qua vẫn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, gây không ít bức xúc trong dư luận và ảnh hưởng nghiêm trọng tới giá trị lịch sử, văn hóa của di tích. Dư luận không khỏi “bàng hoàng” trước thực trạng nhiều di tích sau khi được trùng tu bỗng trở nên “hoành tráng, cao to hơn”, làm mất đi nét đẹp nguyên thủy của nó. Có thể kể đến trường hợp như di tích Lam Kinh (Thanh Hóa), Thành nhà Mạc (Tuyên Quang), Đàn Nam Giao - Thành Nhà Hồ (Thanh Hóa), hay di tích đền Đô, chùa Phật Tích (Bắc Ninh), chùa Trăm Gian (Hà Nội), đình Ngu Nhuế (Hưng Yên)… Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng này, nhưng dưới góc độ chuyên môn, các nhà nghiên cứu cho rằng, đó một phần do đội ngũ làm công tác trùng tu di tích ở nước ta không có chuyên môn và cũng thiếu sự chuyên nghiệp.

Nói về điều này, KTS Lê Thành Vinh - Viện trưởng Viện Bảo tồn di tích cho rằng: “Hậu quả của việc trùng tu di tích không được đảm bảo có nhiều nguyên nhân. Riêng về mặt đội ngũ làm công tác trùng tu có hai vấn đề: Một là những đơn vị, tổ chức tham gia hoàn toàn không có khả năng về vấn đề trùng tu di tích. Hai là đội ngũ thực hiện không có khả năng và chưa có kinh nghiệm”.

Thời gian qua, phần lớn đội ngũ thực hiện công tác này đều là những thợ xây bình thường, không được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ tu bổ di tích. Họ chỉ làm theo chỉ đạo của chủ đầu tư như một cái máy đúng nghĩa. Ngay đến đơn vị tham gia cũng không đủ trình độ để thẩm định về chất lượng công tác tu bổ. Như Hà Nội, dù là thủ đô của cả nước, cũng là nơi tập trung khá đông các di tích (với trên 5.000 di tích, 42,6% trong số đó đã được xếp hạng di tích quốc gia và cấp tỉnh) nhưng ngay đến đội ngũ làm công tác quản lý di tích cũng rất thiếu và yếu về chuyên môn. Theo ông Trương Minh Tiến, Phó giám đốc Sở VH-TT&DL Hà Nội, Hà Nội, có đa dạng về chất lượng, phong phú về loại hình di tích nhưng cũng có những nơi không có cán bộ chuyên môn, không được đào tạo bài bản về công tác này. Có tới 600 di tích đang xuống cấp nghiêm trọng cần phải tu bổ nhưng chỉ tiêu bố trí nhân sự lại hạn chế, dẫn tới tình trạng không có người làm.

Bởi vậy, với việc Thông tư 18 có hiệu lực, tình trạng “mạnh ai nấy làm” kiểu này được kỳ vọng sẽ chấm dứt. Theo Thông tư, chỉ có những tổ chức, cá nhân có đủ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ, năng lực, thể hiện qua chứng chỉ hành nghề và chứng nhận hành nghề. Chứng chỉ hành nghề lập quy hoạch di tích được cấp cho cá nhân là người đã có chứng chỉ hành nghề kiến trúc sư, đã qua lớp bồi dưỡng kiến thức bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích do viện nghiên cứu, trường đại học có chức năng đào tạo chuyên ngành xây dựng, kiến trúc hoặc liên quan đến hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích tổ chức; đã tham gia tư vấn lập ít nhất 3 quy hoạch di tích hoặc 5 dự án tu bổ di tích đã được phê duyệt. Ngoài ra, chứng chỉ hành nghề với các chuyên môn như lập dự án tu bổ di tích, báo cáo kinh tế - kỹ thuật tu bổ di tích, thiết kế tu bổ di tích; Hành nghề thi công tu bổ di tích; Giám sát thi công tu bổ di tích cũng có những yêu cầu tương đương.

Khắc phục tận gốc?

Trong nhiều cuộc hội thảo trước đây, GS.TS Lưu Trần Tiêu - Chủ tịch Hội đồng Di sản Quốc gia đã từng nhấn mạnh vào việc phải chuyên nghiệp hóa đội ngũ làm công tác di sản từ Trung ương tới địa phương. Mặc dù thời gian qua, Cục Di sản văn hóa đã quan tâm tới việc tổ chức các buổi tập huấn cho cán bộ các địa phương, nhưng theo GS Lưu Trần Tiêu, những kiến thức cán bộ tiếp thu được cũng như ý kiến đóng góp của họ đã không được áp dụng tại địa phương, dẫn tới tình trạng “học rồi để đấy”. Còn theo KTS Lê Thành Vinh, việc yêu cầu phải có chứng chỉ và chứng nhận hành nghề như thế này sẽ loại trừ được những người không có khả năng tham gia vào công tác tu bổ di tích. Tuy nhiên, không ít người lo ngại về việc chạy đua hay bằng những cách ngoài chuyên môn để có được tấm thẻ này. Thêm nữa, nước ta cũng chưa có một đơn vị như trường học nào mở ra chuyên ngành này, nên chất lượng của đơn vị cấp chứng chỉ cũng là một vấn đề đáng đặt câu hỏi.

Về điều này, KTS Lê Thành Vinh bày tỏ: Khi đã đưa ra được quy định như trên thì cần có những bước tiến hành thật đồng bộ. Ví dụ: “Điều kiện người được cấp chứng chỉ hành nghề phải thông qua đào tạo, thế thì phải quản lý được chương trình đào tạo, cũng như đội ngũ những người giảng viên thực hiện chương trình đào tạo đó”. Có thể nhiều cơ sở cùng tham gia đào tạo cho những cá nhân về kiến thức kỹ năng bảo tồn trùng tu di tích, nhưng cần thiết phải có giáo trình giảng dạy chuẩn hóa, có được giảng viên đủ kinh nghiệm, kiến thức, lâu năm trong nghề thì mới mong đảm bảo chất lượng đào tạo.

Thực tế thời gian qua, Viện Bảo tồn di tích cũng đã có những lớp đào tạo cho những cá nhân về công tác bảo tồn, tôn tạo di tích. Người tham gia đều là những kiến trúc sư, kỹ sư ít phải có ít nhất 3 năm hoạt động trong lĩnh vực trùng tu, thể hiện qua kê khai và xác nhận các công trình đã làm. Viện sẽ đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa và nâng cao nghiệp vụ cho họ. Nhưng sắp tới, để đáp ứng cao hơn nhu cầu về tu bổ, tôn tạo di tích, chắc chắn đối tượng học sẽ không chỉ dừng lại ở đây, sẽ cần phải hướng tới đầu vào là những sinh viên vừa tốt nghiệp trường kiến trúc. Nhưng theo ông Vinh thì để làm được điều này cần một chương trình dài hơi. Viện cũng đang lên chương trình để áp dụng trong thời gian tới. Sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo như thế này, người học sẽ được tham gia thực tế và được cấp chứng chỉ khi đạt yêu cầu. Với cách làm này, hy vọng rằng tình trạng “loạn” giấy phép sẽ được loại trừ. Và chỉ những người thực sự có chuyên môn mới có thể tham gia vào công tác trùng tu di tích.

Minh Anh