Nhìn lại sự suy thoái của nước Mỹ (Kỳ 1)

13:00 | 10/08/2013

953 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Kể từ đầu thế kỷ XXI đến nay, không biết bao nhiêu quyển sách và bài báo viết về sự suy vi của nước Mỹ đã được ấn hành; và tần suất những “dự báo hiện thực” trên càng dày đặc kể từ hiện tượng suy thoái kinh tế bắt đầu vào năm 2008. La Mã, Mông Cổ, Anh… là những biện dẫn cho lập luận thịnh suy tất yếu của các cường quốc khi đề cập đến “ngày tàn” nước Mỹ. Nhiều tương đồng đã được nêu ra, chu kỳ thịnh vong được tính đến và sự trỗi dậy của vài cường quốc khác cũng được xem là yếu tố dự báo cho thấy việc nước Mỹ phải chấp nhận nhường vị trí số một là điều đương nhiên. Tuy nhiên, liệu nước Mỹ có phải thật sự tiệm cận đến chu kỳ thăng trầm tất yếu của lịch sử?

Kỳ 1: Nước Mỹ trong thế kỷ XXI

Từ lịch sử thịnh suy của đế quốc Anh

Ngày 22/6/1897, khoảng 400 triệu người khắp thế giới, tương đương 1/4 dân số hành tinh được phép nghỉ làm việc. Đó là dịp kỷ niệm lần thứ 60 ngày Nữ hoàng Anh Victoria lên ngôi. Lễ kỷ niệm được tổ chức hoành tráng như một trong những sự kiện nổi bật của lịch sử thế giới nói chung và lịch sử đế quốc Anh nói riêng, kéo dài liên tục 5 ngày, trên đất liền lẫn ngoài đại dương, với cao điểm là chương trình tuần hành và lễ tạ ơn ngày 22/6. 11 thủ hiến trấn thủ các thuộc địa Anh đều về tề tựu, cùng các hoàng thân, công tước, đại sứ, ngoại giao đoàn từ khắp thế giới. Lễ duyệt binh gồm 50.000 lính đã có mặt kị binh nhẹ từ Canada, kị binh từ New South Wales, bộ binh từ Naples, quân đoàn lạc đà từ Bikaner (Ấn Độ), lính Gurkha từ Nepal…

Chứng kiến sự kiện (khi mới 8 tuổi), sử gia lừng danh Arnold Toynbee sau này thuật rằng chương trình lễ kỷ niệm hùng tráng đến mức dường như mặt trời “đứng bất động giữa Thiên đàng”. “Tôi còn nhớ cái không khí đó” - Arnold Toynbee viết - “Ở đây chúng ta đang trên đỉnh thế giới và chúng ta đã đến đỉnh chót vót này để ở đó mãi mãi”. Đó đúng là thời điểm cực thịnh của đế chế Anh, khi họ kiểm soát khoảng 1/4 diện tích đất liền trên trái đất cùng với 1/4 dân số thế giới. Hệ thống thuộc địa, lãnh thổ, căn cứ quân sự, hải cảng được quản lý từ London đã mở rộng khắp toàn cầu. Đế quốc Anh được bảo vệ bởi Hải quân Hoàng gia, lực lượng hải quân lớn nhất lịch sử, được kết nối bởi 170.000 hải lý cáp đại dương và khoảng 1.065.385km cáp chôn và cáp trên không.

Mỹ luôn đầu tư quốc phòng nhiều nhất thế giới

Các con tàu Anh được trang bị thiết bị liên lạc toàn cầu đầu tiên, qua đường điện tín. Vô số tuyến hỏa xa và kênh rạch (đặc biệt kênh đào Suez) càng củng cố thêm mức độ kết nối của hệ thống đế chế. Đặc biệt hơn cả, Đế quốc Anh còn thiết lập thị trường toàn cầu đầu tiên trong lịch sử. Cái gọi là “quyền lực mềm” (sử dụng ảnh hưởng bằng công cụ văn hóa) phổ biến ngày nay cũng đã được người Anh biết dùng. Sử gia Claudio Véliz chỉ ra rằng vào thế kỷ XVII, hai cường quốc bấy giờ - Anh và Tây Ban Nha - đều cố truyền bá ý tưởng đến các nước thuộc địa. Theo cây bút bình luận tên tuổi người Mỹ gốc Ấn Fareed Zakaria (Tiến sĩ khoa học chính trị Đại học Harvard), trong thực tế, chính Anh chứ không ai khác mới là nhà truyền bá văn hóa thành công nhất lịch sử nhân loại. Trước khi xuất hiện khái niệm “Giấc mơ Mỹ”, “Cách sống kiểu Anh” đã được sao chép khắp nơi.

Hai năm sau đại lễ kỷ niệm lần thứ 60 ngày Nữ hoàng Anh Victoria lên ngôi, Anh bước vào cuộc chiến Boer, một cuộc chiến mà nhiều học giả cho rằng nó đánh dấu thời điểm đế quốc Anh bắt đầu suy tàn. London chắc ăn đến mức họ tin rằng, chẳng khó khăn gì để thắng cuộc chiến trên. Trước đó, quân đội Anh đã thắng cuộc chiến Omdurman khi tiêu diệt các chiến binh Hồi giáo ở Sudan dù quân số chỉ bằng 1/2. Trong cuộc chiến Omdurman, lính Anh đã tiêu diệt 48.000 tay súng đối phương chỉ trong 5 giờ trong khi họ chỉ bị thiệt mạng 48 người. Với Boer, cuộc chiến được khởi động với lý lẽ bảo vệ quyền lợi của những người nói tiếng Anh tại hai nước Cộng hòa Boer, Orange Free State tại Nam châu Phi và Cộng hòa Nam Phi (trước đó gọi là Cộng hòa Transvaal). Thật ra, London vốn không thật sự quan tâm đến việc những người nói tiếng Anh tại hai nước Boer trên bị đối xử như công dân hạng hai, cho đến khi người ta phát hiện vàng tại khu vực vào năm 1886 (mà sau đó hai nước trên cung cấp đến 1/4 nguồn vàng cho thị trường toàn cầu!).

Tương tự phiên bản cuộc chiến Iraq 2003, Anh cũng khởi động cuộc chiến Boer bằng chiến dịch đánh phủ đầu, với giai đoạn hai (tăng mạnh hỏa lực) bắt đầu vào năm 1899. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự lấn át của Anh vẫn không dứt điểm nhanh được cuộc chiến khi đối phương tỏ ra kiên quyết sống còn, áp dụng chiến thuật du kích. Bế tắc, quân Anh chẳng còn cách nào khác hơn là đốt làng mạc, lùa thường dân vào trại tập trung và tăng cường quân số. Cuối cùng, số binh lính Anh có mặt tại chiến trường lên đến 450.000, đọ với 45.000 lính địa phương. Người Boer không thể gồng mãi. Năm 1902, họ đầu hàng. Nhưng nhìn toàn cục, Anh đã thất bại với tổn thất 45.000 binh sĩ cùng nửa tỉ bảng. Trên phương diện ngoại giao, Anh bị Pháp, Đức và Mỹ chỉ trích… Phân tích nguyên nhân khiến đế quốc Anh tàn lụi, giới sử gia đã viết hàng trăm quyển sách, nêu ra hàng trăm lý do, rằng nếu như Anh đừng dây vào cuộc chiến Boer, rằng đừng đặt chân đến châu Phi, rằng nên lánh mặt khỏi Thế chiến thứ nhất…

Thật ra, Đế quốc Anh đã chết vì kinh tế chứ không hẳn chính trị. Vào giai đoạn cực thịnh của đế chế (1845-1870), kinh tế Anh chiếm hơn 30% GDP toàn cầu. Lượng tiêu thụ năng lượng Anh gấp 5 lần Mỹ và 155 lần so với Nga. Anh chiếm đến 1/5 mậu dịch thương mại và 2/5 mậu dịch sản xuất. Tuy nhiên, đến cuối năm 1870, Mỹ đã bắt đầu tương đương Anh ở hầu hết các chỉ số sản xuất công nghiệp và đến đầu 1880 thì Mỹ đã qua mặt Anh. Đến Thế chiến thứ nhất, kinh tế Mỹ đã có giá trị gấp đôi Anh. Dù là quốc gia tiên phong trong cuộc Cách mạng Công nghiệp, Anh lại thiếu tầm nhìn. Năm 1907, Anh tung ra lượng xe đạp gấp bốn so với Mỹ nhưng Mỹ chế tạo nhiều xe hơi hơn Anh gấp 12 lần. Trong khi Mỹ tiến ngày một nhanh hơn bằng dây chuyền lắp ráp, ngành sản xuất Anh vẫn cho ra lò sản phẩm trong những nhà máy lạc hậu. Còn nữa, trong khi Mỹ bắt đầu tiến đến mô hình dân chủ, Anh vẫn bám víu vào hệ thống quân chủ. Chính sự thất bại kinh tế đã đưa Anh vào hẻm cụt. Và rồi, Thế chiến thứ hai trở thành cái đinh cuối cùng đóng vào cỗ quan tài Đế quốc Anh. Năm 1945, GDP Mỹ đã gấp Anh đến 10 lần. Anh hẳn còn bi đát hơn nếu không chọn con đường hợp tác với Mỹ thay vì đối đầu…

Nhìn lại nước Mỹ

Nước Mỹ trong nửa sau thế kỷ XX (và đầu thế kỷ XXI) cũng ở giai đoạn cực thịnh như đế quốc Anh ngày nào. Ở đâu mà chẳng có người Mỹ! Vấn đề là liệu Mỹ có đổ như Anh từng đổ? Liệu hai cuộc chiến mà Mỹ đang tiến hành (Iraq và Afghanistan) có lặp lại vết xe cũ của Anh tại chiến trường Boer và là dấu hiệu cho sự suy vi nước Mỹ? Thật ra, có quá nhiều khác biệt khi so sánh Anh - Mỹ. Đế quốc Anh xuất hiện khắp thế giới như những anh thực dân xâm chiếm và bòn rút thuộc địa; trong khi Mỹ - trên nhiều bình diện - vẫn hiện diện đó đây như những nhà đầu tư và mang lại lợi nhuận cho đất nước mà họ đến. Anh xây dựng đế chế bằng bàn tay quân sự trong khi Mỹ tỉnh táo và khôn ngoan hơn khi xây dựng sức mạnh quốc gia bằng nguồn lực kinh tế là chủ yếu.

Cần biết, kinh tế Mỹ đã trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới suốt từ năm 1880 đến nay. Trừ giai đoạn ngắn cuối thập niên 40 - 50 của thế kỷ trước, khi hầu hết các nước công nghiệp đều bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, Mỹ gần như luôn chiếm 1/4 tổng sản lượng kinh tế toàn cầu (32% năm 1913; 26% năm 1960; 22% năm 1980; 27% năm 2000; 26% năm 2007…). Và dù hiện chịu ảnh hưởng của cú đấm suy thoái, kinh tế Mỹ tiếp tục là trụ cột thế giới trong ít nhất hai thập niên nữa (một số nhà kinh tế thậm chí cho rằng đến năm 2025, kinh tế Mỹ vẫn sẽ gấp đôi kinh tế Trung Quốc xét về GDP). Ngoài ra, thế giới thời Đế quốc Anh là thế giới của khu vực trong khi thế giới ngày nay là thế giới toàn cầu. Khác biệt giữa Anh và Mỹ còn thể hiện ở nhiều điểm. Trong khi quân đội Anh ngày trước chỉ tung hoành ở đại dương, quân đội Mỹ ngày nay hoạt động ở mọi địa thế và địa hình. Ngân sách quốc phòng Mỹ hiện bằng gần 1/2 tổng ngân sách quốc phòng thế giới.

Và xét về tính hiệu quả ở nhiều mặt khác, Mỹ cũng nhỉnh hơn, từ giáo dục, nghiên cứu, sử dụng người tài, đầu tư, kinh doanh đến giải trí - thông tin. Trong tất cả ngành công nghiệp then chốt cho tương lai, từ công nghệ nano đến hóa sinh, Mỹ tiếp tục ở vị trí đầu tàu (lợi nhuận từ công nghiệp kỹ thuật sinh học Mỹ đạt đến 50 tỉ USD năm 2005, gấp 5 so với châu Âu và tương đương 76% lợi nhuận công nghiệp kỹ thuật sinh học thế giới). Trong tương lai, Mỹ còn có lợi điểm về mặt dân số. Nicholas Eberstadt, học giả thuộc Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ (AEI), dự báo dân số Mỹ sẽ tăng thêm 65 triệu vào trước năm 2030 trong khi dân số châu Âu ngày càng già đi và không có nguồn thay thế. Cơ quan dân số Liên hiệp quốc dự báo tỷ lệ người ở tuổi lao động so với người già tại Tây Âu sẽ giảm từ 3,8/1 hiện nay xuống còn 2,4/1 vào năm 2030. Ưu thế dân số trẻ của Mỹ cũng cao hơn so với nhiều nước châu Á trong đó có Nhật, Trung Quốc và Hàn Quốc. Goldman Sachs dự báo tuổi trung bình của Trung Quốc sẽ tăng từ 33 năm 2005 lên 45 năm 2050…

Đây không phải lần đầu tiên người ta bàn đến sự sụp đổ của nước Mỹ. Lần thứ nhất xảy ra cuối thập niên 50 của thế kỷ trước khi Liên Xô qua mặt Mỹ về nghiên cứu không gian (với sự kiện phóng vệ tinh Sputnik). Lần thứ hai vào đầu thập niên 70 khi giá dầu tăng cao và Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu (OPEC) chơi ép khiến thị trường Mỹ khốn đốn. Lần thứ ba xuất hiện giữa thập niên 80, khi hầu hết nhà quan sát tin rằng chẳng bao lâu nữa Nhật sẽ nuốt chửng Mỹ (Nhật mua nhiều công ty Mỹ trong đó có Trung tâm Rockefeller ở New York, Hãng phim Columbia Pictures…). Một trang bìa tuần báo Mỹ thậm chí minh họa xu hướng này bằng hình ảnh Nhật thả “bom nguyên tử” hàng hóa xuống Mỹ và Hãng tin ABC News thốt lên rằng “Ai đang sở hữu nước Mỹ?”.

Năm 1987, thị trường chứng khoán Mỹ tan nát càng khiến khả năng dự báo nước Mỹ sụp đổ trở nên gần với hiện thực, trong bối cảnh ngân sách quốc gia và cán cân thương mại bị thâm hụt, khiến Mỹ lần đầu tiên trở thành con nợ quốc tế và lệ thuộc vào dòng vốn từ châu Âu và Nhật. Cuối thập niên 80, sử gia Paul Kennedy thuộc Đại học Yale, trong quyển “The Rise And Fall Of The Great Powers” (Sự thịnh suy của các cường quốc), viết rằng “câu hỏi đang được công chúng tranh luận tăng dần là liệu nước Mỹ có thể duy trì thế đứng hiện tại được chăng chỉ có thể được hồi đáp bằng câu trả lời duy nhất là “KHÔNG”!... Và sự hoài nghi về vị trí cường quốc của Mỹ lại xuất hiện, lần thứ tư, vào đầu thế kỷ XXI. Năm 2005, Thị trường chứng khoán New York tỉnh dậy với cú sốc rằng 24 trong 25 trường hợp IPO (niêm yết chứng khoán lần đầu tiên) lớn nhất thế giới đã xảy ra bên ngoài phạm vi nước Mỹ. Đó cũng là thời điểm Mỹ liên tục xảy ra nhiều vụ bê bối tài chính chấn động.

Nước Mỹ trong thế kỷ XXI

Có sức mạnh dễ dẫn đến ngạo mạn và đây mới chính là gót chân Achilles của nước Mỹ, như từng thấy vào thời George W. Bush. Al-Qaeda với sự thù hằn dành cho nước Mỹ là một ví dụ. Trong nhiều trường hợp, Mỹ tự cho họ có quyền phán xét kẻ khác theo luật riêng của Mỹ (trong khi nhiều luật riêng của Mỹ chẳng giống ai và không theo chuẩn toàn cầu: Mỹ là nước duy nhất thế giới, trừ Liberia và Myanmar, không sử dụng hệ thống mét trong đo lường; họ là nước duy nhất thế giới, trừ Somalia, không chuẩn y Hiệp định quyền trẻ em…). Mỹ là nơi từng dạy cho thế giới biết làm thế nào để trở thành nhà tư bản và bây giờ ai cũng rành trò chơi này mà lại chơi thắng Mỹ. Hầu hết trong ba thập niên qua, Mỹ có tỷ lệ thuế doanh nghiệp thấp nhất các nước công nghiệp; bây giờ, thuế doanh nghiệp Mỹ cao thứ hai thế giới. Yếu tố cạnh tranh ngày nay cũng gay gắt hơn...

Cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, theo Zakaria, không là sản phẩm của tính thiếu hiệu quả trong nội tại kinh tế Mỹ mà hậu quả của nhiều chính sách sai lầm từ chính phủ… Cuối cùng, sự lớn mạnh của nhiều nền kinh tế mới nổi dẫn đến xu hướng chuyển dịch từ Tây sang Đông cũng là một thách thức. Tất cả sẽ dẫn đến sự thay đổi bản chất của trật tự quốc tế. Trên nhiều mặt, Mỹ vẫn duy trì ưu thế sức mạnh vượt trội, đặc biệt ngôn ngữ và đơn vị tiền tệ (thứ mà “cường quốc” Trung Quốc còn lâu mới có khả năng thay thế). Và điều đáng nói nhất là Mỹ đã biết cách điều chỉnh cũng như thích ứng với những biến động của địa chính trị để đối mặt với một thách thức từ châu Á, đang đe dọa không chỉ với vị thế quyền lực Mỹ mà còn đối với an ninh chính trị toàn cầu!

(Xem tiếp kỳ sau)

Mạnh Kim

Nguồn tham khảo: The Post-American World, Fareed Zakaria (bản Updated and Expanded, Release 2.0, Kindle Edition, 2012)

 

 

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc