Biên niên sử chiến thắng chế độ diệt chủng Pol Pot (Kỳ cuối)
Ngày 7/1, quân Việt Nam chiếm sân bay Kampong Chonang và bắt được 10 máy bay A-37, 3 C-123K, 6 C-47, 3 Alouette III cùng một số T-28. Ngoài ra Khmer Đỏ cũng bỏ lại hàng trăm xe tăng và xe bọc thép, rất nhiều đạn dược và lương thực dự trữ chiến lược.
Ngày 8/1, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập với sự hậu thuẫn của Việt Nam.
Ở phía Bắc, các sư đoàn của Quân đoàn 3 cũng tiến xuống Phnom Penh, sau đó Sư đoàn 320 theo quốc lộ 4 xuống các tỉnh phía nam. Các sư đoàn còn lại theo các quốc lộ 5 và 6 tiến về hướng Tây và hướng Bắc.
Tại mặt trận phía nam, từ An Giang, quân Việt Nam bắt đầu vượt biên giới vào ngày 3/1/1979 và tấn công theo hai hướng. Hướng thứ nhất, Sư đoàn 325 (Sư đoàn Bình Trị Thiên) và Sư đoàn 8 tiến về phía Tây, dọc theo quốc lộ số 2. Ngày 5/1/1979, trong khi lực lượng Quân khu 9 tiến đánh Takeo, sư đoàn 325 bắt đầu hành tiến theo hướng Tây Bắc. Cùng lúc đó tướng Nguyễn Hữu An cũng tung Sư đoàn 8 theo hướng tây để đánh chiếm quận lỵ Kampong Trach, nằm ở giao điểm với đường quốc lộ ven biển.
Nắm quyền chỉ huy trực tiếp trung đoàn xung kích 24, Trung tướng Nguyễn Hữu An dẫn trung đoàn tiến từ Tuk Meas về Chhuk. Các xe tăng hạng nặng, xe tải và trọng pháo di chuyển khó khăn trên đường đất và ruộng lúa. Tới chiều ngày 7 tháng 1, lực lượng xung kích đã ra đến đường số 3 và trong quá trình tiến công, đã đánh tan sư đoàn quân Khmer Đỏ phòng ngự Chhuk.
Trong hai ngày 4, 5 tháng 1/1979, từ đảo Phú Quốc, hai phân đội Hải quân Việt Nam gồm một số tàu tuần tiễu loại lớn, hai tàu khu trục Petya cùng nhiều tàu chiến nhỏ chuẩn bị chuyển Lữ đoàn Hải quân 101 và 126 đổ bộ. Hải quân cũng lập trận địa pháo 130mm ở mũi đảo Phú Quốc để yểm trợ cho lực lượng đổ bộ.
Xẩm tối ngày 6/1, toán quân đặc công gồm 87 người bí mật đổ bộ và tấn công chiếm một trận địa pháo Khmer Đỏ bảo vệ bờ biển; cùng lúc, pháo 130mm bắt đầu bắn phá các vị trí quân Khmer Đỏ. Số tàu phóng lôi Khmer Đỏ chạy thoát khỏi cuộc hải chiến và các cuộc không kích của không quân Việt Nam, đến ngày 16/1 lại bị Hải quân Việt Nam chặn đánh trong vịnh Thái Lan và bị tiêu diệt gần hết.
Tối ngày 7/1, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tiến hành đổ bộ ở chân núi Bokor, nằm ở khoảng giữa thị xã Kampot và cảng Sihanoukville.
Hướng thứ hai, Quân khu 9 phụ trách, tiến về phía Bắc đánh chiếm hai thị xã Tan và Takéo. Các sư đoàn Khmer Đỏ trấn giữ quân khu Tây Nam như Sư đoàn 2, 210, 230, 250, bị tan rã và rút lui vào rừng.
Cuối tháng 1/1979 cuộc phản công kết thúc thắng lợi. Đến ngày 17/1 thị xã cuối cùng là Ko Kong rơi vào tay quân đội Việt Nam và chính quyền mới của Campuchia. Cho tới cuối tháng 3, quân đội Việt Nam coi như chiếm được hết những thành phố và tỉnh lỵ quan trọng của Campuchia và tiến sát tới biên giới Thái Lan. Tuy nhiên tàn quân Pol Pot vẫn tiếp tục chống cự và quấy nhiễu. Quân tình nguyện Việt Nam đã có 10 năm truy quét tàn quân Pol Pot và giúp nhân dân Campuchia xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định cuộc sống.
Thành lập chính quyền mới
Ngày 5/1/1979, có 66 đại biểu Campuchia được triệu tập họp ở Mimot để bàn về việc thành lập một đảng cộng sản Campuchia mới. Đảng này lấy lại tên Đảng Nhân dân Cách mạng có từ thời 1951. Những Ủy viên thường vụ của đảng gồm Hun Sen, Bou Thoong, Chan Kiri, Heng Samrin và Chia Soth.
Ngày 8/1/1979, đài phát thanh Phnom Penh loan báo Phnom Penh đã được giải phóng bởi những lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia. Một Hội đồng cách mạng được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng mười ngày sau, hội đồng này ký một hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia.
Tới mùa xuân 1981, hiến pháp mới của Campuchia được thông qua, sau đó là cuộc bầu cử toàn quốc để chọn ra 117 đại biểu quốc hội. Hun Sen được bầu làm Bộ trưởng Ngoại giao, Heng Samrin làm Chủ tịch nước. Ba sư đoàn mới được thành lập và đặt dưới Bộ Quốc phòng, nhưng an ninh vẫn được duy trì chủ yếu dựa vào sự hiện diện của 180.000 quân Việt Nam mà lực lượng chủ chốt là Quân đoàn 4 do đại tướng Lê Đức Anh chỉ huy.
Chính quyền mới của Campuchia chỉ được một số nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa công nhận.
Từ năm 1979 đến giữa năm 1985, quân đội Việt Nam thực hiện các chiến dịch quân sự truy quét đánh phá các căn cứ của Khmer Đỏ. Tháng 1/1980, chiến dịch quân sự nhằm vào Khmer Đỏ tại Phnom Chhat bắt đầu. Thời gian này, Khmer Đỏ bắt đầu tái xâm nhập Campuchia từ Thái Lan với khoảng 3-4 ngàn quân. Khi mùa mưa tới, Khmer Đỏ đã tái tổ chức lực lượng, chỉ huy và huấn luyện, bắt đầu các cuộc giao tranh qui mô nhỏ như đánh du kích, phục kích, pháo kích quấy rối.
Tới năm 1985, Việt Nam huy động khoảng 60 ngàn quân cho chiến dịch tấn công, cùng với hàng chục ngàn dân công Campuchia xây đường và mở rộng các sân bay dã chiến tại khu vực biên giới. Cuối tháng 12/1984, khoảng 1.000 quân Việt Nam đánh hạ căn cứ Nong Samet.
Xe tăng T-54 của Việt Nam rút về nước năm 1988.
Tháng 1/1985, khoảng 4.000 quân Việt Nam, với hơn 30 xe tăng và xe bọc thép hỗ trợ, đánh vào căn cứ Ampil của lực lượng KPNLF với 5.000 quân phòng ngự và triệt hạ hoàn toàn căn cứ này sau 36 giờ. Quân Việt Nam và quân chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia cũng mở chiến dịch triệt hạ căn cứ lớn của Khmer Đỏ tại Phnom Malai. Chiến dịch mùa khô năm 1984-1985 là chiến dịch lớn chưa từng có của Việt Nam kể cả về qui mô, thời gian và mức độ thành công.
Kể từ năm 1986, các lực lượng này về cơ bản không thể là mối đe dọa lớn đối với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia được nữa.
Năm 1989, Cộng hòa Nhân dân Campuchia đã đủ mạnh để tự bảo vệ. Tháng 12 cùng năm, Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, rút toàn bộ khỏi Campuchia.
Campuchia hồi sinh mạnh mẽ
Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Hoàng gia Campuchia Men Sam On từng nói: “Nhắc lại chiến thắng ngày 7/1, Campuchia không thể quên sự hy sinh to lớn của quân tình nguyện Việt Nam trên đất nước mình. Mồng 7/1 là ngày sinh thứ hai của Campuchia”.
Chiến thắng Tập đoàn Polpot, dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng sau thời kỳ đen tối 3 năm 8 tháng 20 ngày dưới chế độ Khmer Đỏ. Hơn 2 triệu người dân Campuchia đã bị giết hại, mọi cơ sở xã hội bị xóa bỏ tận gốc trong thời gian này vì chính sách lãnh đạo cực đoan, tàn bạo, cưỡng bức người dân, bắt lao động khổ sai của Polpot.
Nhắc lại chiến thắng này, nhân dân Campuchia không thể nào quên công ơn của các chiến sĩ cứu quốc Campuchia, mặt trận giải phóng Campuchia và sự hy sinh to lớn của quân tình nguyện Việt Nam, các chuyên gia Việt Nam trên đất nước Campuchia.
Trong những tháng ngày đen tối đó, Polpot cũng có dã tâm phát động cuộc chiến tranh đẫm máu xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam. Đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Mật trận Đoàn kết Cứu nước Campuchia, của nhân dân Campuchia anh em, Đảng, Nhà nước dân dân và quân đội Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng và giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, đưa đến thắng lợi ngày 7/1/1979. Với thắng lợi đó, nhân dân Campuchia đã khép lại một trang lịch sử đen tối và mở ra kỷ nguyên độc lập, hòa bình, tự do và phát triển.
35 năm qua, Campuchia đang chuyển mình mạnh mẽ để trở thành một quốc gia năng động, đầy tiềm năng, thống nhất và tiến lên bình đẳng xã hội. Campuchia đã góp phần vào sự phát triển hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới. Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Hun Sen cũng khẳng định lập trường của Campuchia về quyết tâm tăng cường, củng cố mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện lâu dài với Việt Nam.
35 năm là một chặng đường vẻ vang rất đỗi tự hào của mối quan hệ láng giềng hữu nghị, truyền thống tốt đẹp của hai nước. Nhìn lại chặng đường qua, quan hệ tốt đẹp giữa hai nước đang ngày càng đơm hoa kết trái; kết quả hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư và nhiều lĩnh vực khác đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực, ngày càng đi vào thực chất. Những thành tựu đó không chỉ mang lại niềm hạnh phúc cho nhân dân mỗi nước mà còn vì hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển ở khu vực và thế giới.
Trong 10 năm (1979 - 1989), chuyên gia Việt Nam đã tận tụy đem hết tài năng, trí tuệ giúp cách mạng Campuchia, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế trọng đại với tinh thần vô tư trong sáng cao cả chưa có tiền lệ trong lịch sử ngoại giao thế giới. Qua đó, hai nước càng hiểu rõ hơn tình hữu nghị, đoàn kết của hai dân tộc. Đó thật sự là mối quan hệ láng giềng thủy chung son sắt.
Đức Toàn (tổng hợp)