Tín dụng tăng - vẫn chưa hết lo

07:00 | 12/10/2013

832 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau một thời gian trì trệ, tín dụng ngân hàng đã tăng tốc trở lại, cho thấy những tín hiệu tích cực của tình hình kinh tế đang khởi sắc. Tuy nhiên, những nghi ngại về định hướng nguồn tín dụng đã thực sự nhằm vào thị trường hay chưa thì vẫn là vấn đề khiến nhiều người quan tâm.

Tín hiệu vui

Lâu nay, sự thay đổi chỉ số tín dụng thể hiện rõ tình trạng sức khỏe của nền kinh tế. Theo đó, tín dụng yếu chứng tỏ kinh tế lâm vào khó khăn, dòng tiền không quay vòng phục vụ cho sản xuất, kinh doanh và ngược lại.

Năm 2013 đánh dấu những khó khăn của nền kinh tế khi phải đến quý II những dấu hiệu về sự phục hồi tín dụng mới bắt đầu xuất hiện. Tính đến cuối tháng 8, tăng trưởng tín dụng trong toàn hệ thống đã đạt 6,45%. Trong đó, tín dụng bằng VNĐ tăng 10,4%; tín dụng ngoại tệ giảm 11,55%. Đây thực sự là kết quả đáng mừng bởi mục tiêu tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Nhà nước đặt ra cho năm 2013 là phải đạt 12%.

Sự tăng trưởng trở lại của tín dụng được cho là nhờ việc các ngân hàng đã kịp thời điều chỉnh lãi suất cho vay. Chỉ trong vòng một năm, lãi suất cho vay liên tiếp phá mốc và thay đổi đến 5 lần. Theo đó, lãi suất cho vay của các ngân hàng trong quý II đã bắt đầu điểu chỉnh giảm, tạo ra tính cạnh tranh cho thị trường vốn vay. Theo các chuyên gia, với lãi suất cho vay hiện nay mặt bằng lãi suất đã đưa về với thời điểm của năm 2005. Đây là mức lãi suất được đánh giá vô cùng thuận lợi để doanh nghiệp vay nhằm tái thiết hoạt động kinh doanh.

Tín dụng đã tăng nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết

Các ngân hàng liên tục đưa ra các chương trình tín dụng với mức lãi suất ưu đãi, tích cực giảm lãi suất của các khoản vay cũ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vốn vay... khiến nhu cầu vốn vay được đẩy mạnh. Điển hình như Ngân hàng Vietcombank, nếu như trong quý I, tín dụng của ngân hàng này âm 1,47% thì hết quý II, tín dụng đã tăng trở lại đạt dương 2,8% so với thời điểm năm 2012.

Ông Nghiêm Xuân Thành, Tổng giám đốc Vietcombank cho biết: Với sức tăng trưởng tín dụng như hiện nay, Vietcombank tin tưởng sẽ đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước đề ra. Cầu tăng của tín dụng là lý do khiến nhiều ngân hàng đã bắt đầu có động thái xin được nới room tín dụng nhằm tăng lợi nhuận. Tiêu biểu là BIDV với đề xuất nới room lên 17%. Nhiều ngân hàng cổ phần cũng có chung đề xuất này như: VIB, Sacombank, HDBank, Nam A Bank… Đại diện ngân hàng VIB cho hay: Vốn vay đã tăng mạnh trong quý II khiến đầu ra của tín dụng không sợ bị tắc như đầu năm. Vì vậy xem xét tình hình hoạt động hiện tại chúng tôi đề xuất được nới room tín dụng lên 20%.

Bên cạnh việc giảm lãi suất của các ngân hàng thì cũng cần phải đề cập đến các chính sách của Chính phủ trong thời gian qua. Trong đó đặc biệt ưu tiên cho những lĩnh vực gặp khó khăn, như việc triển khai các chương trình hỗ trợ bất động sản, giảm và giãn thuế cho doanh nghiệp gặp khó khăn… Điển hình nhất là phải nói đến chương trình “Kết nối ngân hàng và doanh nghiệp” đang giúp hàng trăm doanh nghiệp đón nhận những dòng vốn ưu đãi phục vụ cho sản xuất, kinh doanh.

Chỉ tính riêng tại địa bàn TP HCM chương trình này đã và đang hỗ trợ cho hàng trăm doanh nghiệp với tổng hạn mức giải ngân là 8.781 tỉ đồng. Ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Chi nhánh TP HCM cho biết: Các chương trình, chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp trong việc vay vốn đang đã thực sự có chuyển biến tích cực. Doanh nghiệp không còn lo ngại về vấn đề lãi suất cao như thời gian trước và họ cũng mạnh dạn hơn trong việc đăng ký vay vốn để tái thiết hoạt động kinh doanh. Song song với việc hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó, thì thành công của chủ trương chống đôla hóa của Ngân hàng Nhà nước cũng góp phần đẩy nguồn tăng trưởng tín dụng lên cao. Bằng chứng là nguồn tín dụng bằng ngoại tệ  trong 8 tháng đầu năm đã giảm 11,55% trong khi tín dụng bằng đồng nội tệ đã tăng 10,4%.

Cần thời gian

Mặc dù tín dụng tăng trưởng tốt bước đầu phản ánh tình hình kinh tế đang có những tín hiệu chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn đó những vấn đề chưa thể giải tỏa khiến thị trường không khỏi lo lắng. Đặc biệt là sự tăng tốc này trở lại khi nền kinh tế vẫn được đánh giá chưa thoát khỏi khó khăn trong thời gian tới. Nhiều ý kiến cho rằng, chưa thể an tâm khi đầu ra của tín dụng chưa được xác minh rõ. Liệu nguồn tín dụng này có thực sự đi vào thị trường để tái thiết hoạt động sản xuất hay không thì vẫn cần phải đợi thời gian.

Trên thực tế, lo ngại này là không phải thiếu thực tế, bởi theo báo cáo mới đây của Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 8 chỉ tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng 7% của tháng 7. Đáng lưu ý là sản xuất và phân phối điện cũng chỉ tăng 8,4% trong khi tháng 7 tăng tới 9,2%. Những con số này cho thấy hoạt động sản xuất, kinh doanh vẫn gặp nhiều khó khăn nên nhu cầu sử dụng điện thấp.

Bên cạnh đó, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến trong tháng 8 cũng tăng trở lại sau khi giảm liên tiếp trong những tháng đầu năm. Nếu như đầu tháng 7, chỉ số tồn kho của ngành này tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước, thì đến ngày đầu tháng 8 con số này đã tăng lên 9%. Như vậy có thể thấy sự lo ngại về việc dòng tín dụng chưa thực sự đi vào sản xuất không phải là thừa.

Bên cạnh đó, mặc dù hiện nay các ngân hàng ra sức cho vay sản xuất kinh doanh và vay tiêu dùng, tuy nhiên, tình trạng hàng tồn kho của doanh nghiệp vẫn kéo dài khiến nhiều chuyên gia lo ngại không ngoại trừ việc vay vốn ưu đãi là nhằm mục đích trả tín dụng đen. Điều mà các doanh nghiệp đã thực hiện trong thời gian trước đây để duy trì hoạt động sản xuất.

Theo Tiến sĩ Đinh Thế Hiển, vẫn còn quá sớm để vui mừng trước sự tăng trở lại của tín dụng, bởi không ngoại trừ việc các ngân hàng cơ cấu lại nợ. Mặt khác hiện tại vẫn còn không ít doanh nghiệp do tồn kho và nợ vay chưa giải quyết được nên không dám vay tiếp. Ngược lại, các ngân hàng vẫn khá thận trọng với việc cho doanh nghiệp vay mà chuyển hướng sang khách hàng cá nhân. Vì vậy, khó mà khẳng định được rằng tín dụng đã đi đúng hướng. Cũng theo ông Hiển, để tín dụng thực sự tăng trưởng ổn định và đi đúng hướng thì cần phải có thêm thời gian để kiểm chứng. Điều quan trọng hiện nay là ngân hàng cần tăng cường hơn nữa hoạt động cho vay nhằm tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.

Theo đó, ngân hàng cần tiếp tục có các chính sách ưu tiên cho đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi. “Về phía các doanh nghiệp cũng cần phải tập trung vào việc tìm giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho chính mình. Tranh thủ các chính sách ưu đãi của nhà nước để vay vốn, giải quyết tốt vấn đề hàng tồn kho nhằm mở rộng thị trường, tái thiết hoạt động sản xuất, tăng đầu tư chi phí rẻ. Doanh nghiệp phải có chiến lược cụ thể, làm sao sử dụng nguồn vốn vay đúng mục đích và đạt được hiệu quả cao nhất” - ông Hiển nhận định.

Thùy Trang

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 84,300 85,800
AVPL/SJC HCM 84,300 85,800
AVPL/SJC ĐN 84,300 85,800
Nguyên liệu 9999 - HN 73,500 74,300
Nguyên liệu 999 - HN 73,400 74,200
AVPL/SJC Cần Thơ 84,300 85,800
Cập nhật: 07/05/2024 03:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.350 75.150
TPHCM - SJC 84.300 86.500
Hà Nội - PNJ 73.350 75.150
Hà Nội - SJC 84.300 86.500
Đà Nẵng - PNJ 73.350 75.150
Đà Nẵng - SJC 84.300 86.500
Miền Tây - PNJ 73.350 75.150
Miền Tây - SJC 84.300 86.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.350 75.150
Giá vàng nữ trang - SJC 84.300 86.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.350
Giá vàng nữ trang - SJC 84.300 86.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.350
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.300 74.100
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.330 55.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.100 43.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.580 30.980
Cập nhật: 07/05/2024 03:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,325 7,510
Trang sức 99.9 7,315 7,500
NL 99.99 7,320
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,300
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,390 7,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,390 7,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,390 7,540
Miếng SJC Thái Bình 8,380 8,580
Miếng SJC Nghệ An 8,380 8,580
Miếng SJC Hà Nội 8,380 8,580
Cập nhật: 07/05/2024 03:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 84,300 86,500
SJC 5c 84,300 86,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 84,300 86,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,350 75,050
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,350 75,150
Nữ Trang 99.99% 73,250 74,250
Nữ Trang 99% 71,515 73,515
Nữ Trang 68% 48,145 50,645
Nữ Trang 41.7% 28,615 31,115
Cập nhật: 07/05/2024 03:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,367.15 16,532.47 17,062.88
CAD 18,078.25 18,260.85 18,846.71
CHF 27,318.10 27,594.04 28,479.34
CNY 3,445.08 3,479.88 3,592.07
DKK - 3,595.35 3,733.04
EUR 26,616.08 26,884.93 28,075.52
GBP 31,023.67 31,337.04 32,342.42
HKD 3,163.66 3,195.62 3,298.14
INR - 303.30 315.43
JPY 160.12 161.74 169.47
KRW 16.18 17.97 19.60
KWD - 82,354.82 85,647.40
MYR - 5,296.27 5,411.79
NOK - 2,290.42 2,387.67
RUB - 265.66 294.09
SAR - 6,745.61 7,015.30
SEK - 2,299.43 2,397.06
SGD 18,301.71 18,486.58 19,079.68
THB 611.17 679.08 705.08
USD 25,127.00 25,157.00 25,457.00
Cập nhật: 07/05/2024 03:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,483 16,503 17,103
CAD 18,257 18,267 18,967
CHF 27,474 27,494 28,444
CNY - 3,450 3,590
DKK - 3,573 3,743
EUR #26,463 26,673 27,963
GBP 31,311 31,321 32,491
HKD 3,116 3,126 3,321
JPY 160.64 160.79 170.34
KRW 16.52 16.72 20.52
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,261 2,381
NZD 14,988 14,998 15,578
SEK - 2,270 2,405
SGD 18,217 18,227 19,027
THB 637.39 677.39 705.39
USD #25,095 25,095 25,457
Cập nhật: 07/05/2024 03:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,157.00 25,457.00
EUR 26,797.00 26,905.00 28,111.00
GBP 31,196.00 31,384.00 32,369.00
HKD 3,185.00 3,198.00 3,303.00
CHF 27,497.00 27,607.00 28,478.00
JPY 161.56 162.21 169.75
AUD 16,496.00 16,562.00 17,072.00
SGD 18,454.00 18,528.00 19,086.00
THB 673.00 676.00 704.00
CAD 18,212.00 18,285.00 18,832.00
NZD 15,003.00 15,512.00
KRW 17.91 19.60
Cập nhật: 07/05/2024 03:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25160 25160 25457
AUD 16613 16663 17168
CAD 18356 18406 18861
CHF 27787 27837 28402
CNY 0 3483.5 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27070 27120 27830
GBP 31660 31710 32370
HKD 0 3250 0
JPY 163.06 163.56 168.1
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0364 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 15067 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18574 18624 19181
THB 0 650.7 0
TWD 0 780 0
XAU 8420000 8420000 8620000
XBJ 6500000 6500000 7280000
Cập nhật: 07/05/2024 03:45