GS.TSKH Nguyễn Quang Thái: Phải biết coi thương trường là chiến trường

07:00 | 04/08/2013

2,259 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo GS.TSKH Nguyễn Quang Thái - Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, đã là thị trường thì phải cạnh tranh. Cạnh tranh không thắng thì phải mất thị trường. Con đường tồn tại duy nhất của doanh nghiệp là phải nâng cao sức cạnh tranh.

PV: Trong hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp lớn, tiềm lực mạnh từ nước ngoài vào, thị phần hàng hóa có nguy cơ bị thu hẹp, thậm chí mất thị phần nội địa, xin giáo sư cho nhận định về tình hình này?

GS.TSKH Nguyễn Quang Thái: Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, mọi doanh nghiệp đều phải chấp nhận cạnh tranh. Và mọi cuộc cạnh tranh dù “âm thầm” cũng đều khốc liệt. Một chân lý là phần thắng thuộc về doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh, quản trị bên trong tốt hơn, bảo đảm có thị trường rộng lớn trong toàn bộ chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Khi nước ta đẩy mạnh hội nhập quốc tế thì ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh. Hiện nay, trong số gần 15.000 doanh nghiệp FDI đang hoạt động ở nước ta có đến hơn 11.000 doanh nghiệp với số vốn 100% của nước ngoài.

Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp FDI này có thể tham gia trực tiếp vào mạng lưới toàn cầu và cũng đã có ít nhiều kinh nghiệm trong cạnh tranh toàn cầu. Trong khi đó, các doanh nghiệp trong nước, phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thường có nguy cơ bị cạnh tranh không cân sức. Trong thời gian tới, tình trạng cạnh tranh này còn gay gắt hơn vì các quy định ngày càng mở hơn. Muốn để không bị mất thị phần nội địa, các doanh nghiệp Việt phải nâng cao năng lực cạnh tranh trong toàn bộ quy trình từ nghiên cứu thị trường, thiết kế mẫu mã, sản xuất, kinh doanh, cung ứng sản phẩm đến làm tốt việc bảo trì…

GS.TSKH Nguyễn Quang Thái

PV: Xuất khẩu là một trong những thế mạnh của nền kinh tế nước ta nhưng hiện nay doanh nghiệp FDI cũng áp đảo trong lĩnh vực này, chiếm 2/3 lượng xuất khẩu. Theo giáo sư, đâu là những mặt thuận lợi và trở ngại trong thu hút FDI?

GS.TSKH Nguyễn Quang Thái: Trước hết, trong vấn đề xuất khẩu, có hai mặt. Nếu doanh nghiệp FDI là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế Việt Nam thì dù FDI hay nội địa xuất khẩu đều quý. Các doanh nghiệp FDI, như Samsung có thể sản xuất và bán sản phẩm với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, góp phần làm cho tốc độ xuất khẩu cả nước tăng 14,3% trong 7 tháng qua. Phân theo loại hình doanh nghiệp thì xuất khẩu FDI 7 tháng đầu năm tăng đến 22% và FDI có lượng xuất siêu đến gần 7 tỉ USD.

Trong khi đó, các doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn tiêu thụ sản phẩm, cả về lượng và giá nên tốc độ xuất khẩu chỉ tăng 1,6%. Do đó, trong thời gian tới, các doanh nghiệp trong nước cần thực hiện tốt quá trình tái cơ cấu nội bộ doanh nghiệp và vươn mạnh ra thị trường. Các cơ quan Nhà nước cũng cần có những giải pháp chính sách hợp lý để bảo hộ sản xuất nội địa theo đúng quy định của pháp luật quốc tế, bồi dưỡng năng lực cạnh tranh của toàn bộ khu vực kinh tế trong nước và các doanh nghiệp trong nước.

Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có các biện pháp để đẩy mạnh thu hút vốn FDI. Vấn đề là thu hút loại hình FDI nào thích ứng với chính sách phát triển của đất nước, bảo đảm hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh và hướng đến phát triển bền vững. Không thể chấp nhận cách thu hút FDI “bằng mọi giá”, nhấn mạnh các “lợi thế” tĩnh như: lao động rẻ, công nghệ thấp, giá một số đầu vào rẻ, tập trung khai thác tài nguyên thiên nhiên… hoặc thậm chí gây cạnh tranh giữa các địa phương trong nước. Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, hướng tới mô hình tăng trưởng mới cần có mục tiêu xử lý hài hòa vấn đề này.

PV: Hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn là lực lượng chủ chốt của nền kinh tế nước ta. Theo giáo sư, Nhà nước cần hỗ trợ gì cho doanh nghiệp và bản thân doanh nghiệp cần làm gì để đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp có tiềm lực mạnh?

GS.TSKH Nguyễn Quang Thái: Như đã nói trên, ở đây có 2 phía. Với Nhà nước, cần có chính sách có phân biệt, hỗ trợ đúng quy định của các thỏa thuận hội nhập để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tham gia tốt nhất vào toàn bộ dây chuyền sản xuất nội địa và toàn cầu. Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ để liên kết với nhau và tham gia mạng lưới của các doanh nghiệp lớn hơn (cả trong và ngoài nước).

Ví dụ, chính sách thuế cũng cần điều chỉnh để khuyến khích việc cung ứng sản phẩm và bán thành phẩm sản xuất trong nước hơn là nhập khẩu miễn thuế. Cần có những đăng ký để hỗ trợ các sản phẩm có địa chỉ xuất xứ, nhất là với các sản phẩm truyền thống (nước mắm, cà phê, hoa quả…). Cũng cần xây dựng và vận hành các quỹ đầu tư “mạo hiểm” để hỗ trợ với vai trò đầu tư mồi cho các nghiên cứu sản phẩm mới, ứng dụng công nghệ mới… Cải tiến công tác quy hoạch, hình thành các dịch vụ logistic hiệu quả cũng góp phần nâng sức cạnh tranh. Với bản thân các doanh nghiệp, cần có những nỗ lực tối đa để cải tiến quản trị nội bộ và tiến hành những liên kết hợp lý để nâng cao khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh cạnh tranh gay gắt.

PV: Bên cạnh những khó khăn, thách thức, doanh nghiệp Việt có ưu thế gì so với các doanh nghiệp nước ngoài trong cạnh tranh trên thị trường nội địa, thưa giáo sư?

GS.TSKH Nguyễn Quang Thái: So với doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp Việt thường có nhiều yếu kém về năng lực tài chính, công nghệ, khả năng tiếp cận thị trường… Nhưng các doanh nghiệp Việt lại có lợi thế là đóng chân trên “đất mẹ” nên hiểu rõ hơn ai hết nhu cầu đích thực của thị trường nội địa. Khi đó, các doanh nghiệp nội địa có thể tiến hành các liên kết, sáp nhập đa dạng và nhập công nghệ tiên tiến để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Trong quá trình này, vai trò của Nhà nước rất quan trọng để hỗ trợ việc nuôi dưỡng và phát triển doanh nghiệp, tạo thế và lực để doanh nghiệp có thể tham gia ngày càng bình đẳng vào cạnh tranh quốc tế và tại thị trường nội địa.

PV: Trong khi các rào cản kỹ thuật của nước ta chưa có hoặc không cao thì rào cản kỹ thuật của các nước lại rất khắt khe, là một bất lợi trong cạnh tranh. Vậy theo giáo sư, có nên gia tăng các biện pháp bảo hộ cho hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước?

GS.TSKH Nguyễn Quang Thái: Trong quá trình cạnh tranh thì chỉ doanh nghiệp mạnh mới có điều kiện cạnh tranh thành công. Hàng rào kỹ thuật có thể giúp yểm trợ doanh nghiệp ở khía cạnh này hay khía cạnh khác nhưng cũng rất hạn chế. Do đó, dù không loại trừ khả năng dùng hàng rào kỹ thuật một cách linh hoạt để bảo hộ lợi ích của người tiêu dùng trong nước và doanh nghiệp làm ăn chân chính, chống lại cách làm ăn kiểu “lấy thịt đè người”, nhưng các giải pháp bảo hộ này cũng cần tuân thủ các quy định quốc tế trong hội nhập.

Đồng thời, con đường tiến lên về lâu dài không phải là làm thêm nhiều hàng rào, dù được mang danh “hàng rào kỹ thuật”, mà cần nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ cải tiến của bản thân doanh nghiệp và quản lý của Nhà nước để hội nhập thành công. Đó là cách căn cơ để “mở cửa” thành công. Ngay Nhật Bản cũng đang phải tính đến hạ gỡ các hàng rào bảo hộ đối với các lĩnh vực nông lâm thủy sản lâu nay được che chắn rất kỹ là ví dụ để thấy trong thế giới hội nhập cần có tư duy chiến lược thích hợp.

PV: Xin cảm ơn giáo sư!

Mai Phương (thực hiện)

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 18:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 18:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Cập nhật: 20/04/2024 18:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 18:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 18:45