“Bóng ma” tín dụng đen

06:52 | 04/08/2012

2,075 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Nhiều chuyên gia tài chính - ngân hàng khẳng định, nếu các doanh nghiệp vẫn cứ khó ngồi lại với nhau thế này, thì nguy cơ “bóng ma” tín dụng đen quay trở lại là hoàn toàn có thể...

Nguy cơ rình rập

Không ai có thể biết tín dụng đen xuất hiện từ bao giờ và khi nào mới chịu... thôi “đụng chạm” đến xã hội văn minh. Chỉ biết rằng người chơi (đi vay và cho vay) đều chấp nhận tín dụng đen như một phần của công việc kinh doanh hàng ngày.

Chắc mọi người chưa quên, hàng loạt vụ vỡ tín dụng “đen” cuối năm ngoái xảy ra trên nhiều địa phương phía Bắc. Nó vén mở một bức màn, hóa ra hệ thống ngân hàng chính ngạch hoàn toàn xa lạ với một bộ phận lớn dân doanh. Bởi thế, tín dụng đen vẫn song song tồn tại với ngân hàng là do thị trường chính thức không đáp ứng đủ vốn cho sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của người dân.

Cho đến tận bây giờ, vốn từ ngân hàng vẫn cứ xa vời, họ không còn sự lựa chọn nào ngoài vay nóng lãi suất cao, nếu muốn có một khoản chi tiêu thường xuyên cho doanh nghiệp mình. “Khi tình hình nợ xấu tăng cao và tăng nhanh thế này, việc các doanh nghiệp cậy nhờ tín dụng đen để đáo hạn các khoản vay hoặc trả lãi ngân hàng là điều hoàn toàn có thể xảy ra” - nữ giám đốc chi nhánh một ngân hàng quốc doanh thú nhận - “Tất nhiên đó là điều bản thân ngân hàng chúng tôi không hề muốn. Chắc chắn là doanh nghiệp nhờ đến tín dụng đen 1-2 lần mà tình hình sản xuất kinh doanh không được cải thiện thì chỉ có nước phá sản, vỡ vụn. Lúc đó Ngân hàng còn mất luôn cơ hội thu lại khoản vay của doanh nghiệp đó, bởi nó đã rơi xuống nhóm có nguy cơ mất trắng rồi”.

Vị nữ giám đốc trên thừa nhận, cũng có tình trạng nhân viên tín dụng của các ngân hàng lợi dụng tình hình cố tình gây khó dễ, rồi gạ gẫm khách hàng vay bằng tiền riêng cá nhân lãi suất thấp hơn tín dụng đen và cao hơn ngân hàng một vài %. Anh Trọng Minh, Ủy viên HĐQT Công ty đệm Sochi Vietnam than thở: “Với tình trạng tồn kho và ế ẩm như hiện tại, nếu không huy động kịp tiền mặt từ bạn bè và người thân để trả lãi ngân hàng, không biết chừng doanh nghiệp phải “mò” đến tín dụng đen mất. Báo chí, các phương tiện truyền thông nói mãi rồi, nhưng quả thật chúng tôi không sao tiếp cận được vốn của ngân hàng. Họ luôn thường trực một lời hẹn mà không biết bao giờ mới có hồi kết. Họ không dám cho ai vay vào lúc này...”.

Chuyên gia kinh tế cao cấp Lê Đăng Doanh cho rằng, nợ xấu là mầm bệnh và đây chính là nguyên nhân khiến tín dụng “đen” có thể sẽ bùng phát và có cơ hội lây lan nhanh như từng xảy ra cuối năm 2011. “Thị trường tín dụng đen còn rơi rớt từ năm 2011, bởi vậy việc Ngân hàng Nhà nước áp trần lãi suất dưới lạm phát (lãi suất huy động 11% so với mức lạm phát 13% dự kiến cho hai năm 2011 và 2012), hay gọi cách khác là lãi suất “âm” chính là nguyên nhân khiến nhiều người cho rằng, đồng nội tệ đang mất giá”. Người sẵn tiền, lại nghe lời dụ ngon ngọt của những kẻ đâm đầu vào bất động sản và chứng khoán, lao vào tín dụng “ngoài luồng”. Đó là ảnh hưởng đầu tiên lên hệ thống ngân hàng vừa non trẻ, lại đang trong quá trình tích lũy. Điểm đặc biệt nữa là đa số các đối tượng làm tín dụng “đen” chỉ là cá nhân, tức là họ vay để cho vay nên cũng dễ dàng thao túng khách hàng vốn đang phát sốt vì bị ngân hàng thúc nợ.

Khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, vay - mượn tín dụng vỡ như bong bóng, thì các khoản nợ dây dưa ngày càng nhiều. Đã có tín dụng đen thì ắt phải có cách đòi nợ theo kiểu xã hội đen, đó là điều phức tạp nhất của mảng tối này. Đó là một thực tế đáng buồn bởi khi mở cửa với thế giới, chúng ta không thể để cho không gian phi-luật-pháp lan rộng và tự tung tự tác chi phối một phần nền kinh tế quốc dân như vậy được.

Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ nợ - trả được coi là hoạt động tất yếu của các giao dịch kinh tế và phân công lao động. Quan hệ nợ - trả thường được ràng buộc bởi các điều khoản về nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi. Những thoả thuận này được thể hiện bằng các hợp đồng vay mượn hoặc hợp đồng tín dụng. Khi quan hệ nợ - có được luật hóa và được tôn trọng là điều cần thiết cho một nền kinh tế lành mạnh. Tuy nhiên, đời sống thương trường không phải lúc nào cũng diễn ra như mong muốn, thế mới có chuyện nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ xấu.

Chuyên gia tài chính ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu phân tích, đặc điểm chính của tín dụng “ngoài luồng” là tính rủi ro cao, do không dựa trên các tài sản thế chấp mà chủ yếu dựa vào tín chấp. Vì lẽ này mà lãi suất huy động (được các phương tiện thông tin đại chúng đề cập hàng ngày – PV) thường cao hơn nhiều so với lãi suất vay từ các ngân hàng. Trong điều kiện thị trường ổn định, việc lãi suất huy động cao luôn là sức hấp dẫn lớn khiến nhiều người có tiền sẵn sàng chấp nhận các rủi ro để kiếm lời theo kiểu “lướt sóng nhỏ lẻ”.

Sớm xử lý nợ xấu

PGS-TS Nguyễn Thị Mùi khẳng định, chúng ta phải sớm công khai, minh bạch hóa nhóm ngân hàng gây nên nợ xấu khủng khiếp của toàn hệ thống để từ đó Chính phủ đưa ra những quyết sách mang tính dứt khoát. “Hiện tại, thông tin được đưa ra chỉ là tương đối (trên 200.000 tỉ đồng nợ xấu) chứ chưa biết khu vực doanh nghiệp (nhà nước, tư nhân, liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài...) nào đang nợ nhiều nhất, nợ ở cấp độ nào và những Ngân hàng nào đang gánh số nợ này. Phải minh bạch, công khai những con số trên thật chi tiết thì chúng ta mới giải quyết được. Nếu không nguy cơ tín dụng đen bao trùm trở lại là rất lớn.

Trong buổi trao đổi với báo giới về nợ xấu mới đây, Ngân hàng Nhà nước đưa ra hai con số. Thứ nhất, theo báo cáo của chính các tổ chức tín dụng, đến 31/5/2012, nợ xấu của hệ thống chỉ là 4,47%, trong khi ở thông số thứ hai, giám sát từ xa của Ngân hàng Nhà nước khẳng định, nợ xấu của hệ thống là 7,2%. Có lẽ con số thứ hai tin cậy hơn. Vấn đề còn lại là trong con số đó, nhóm ngân hàng nào chiếm tỉ trọng lớn nhất?

Báo cáo chuyên đề của bộ phận nghiên cứu một ngân hàng thương mại vừa công bố có những dữ liệu cơ bản khá chi tiết. Ở cách tính của Ngân hàng Nhà nước, dữ liệu cập nhật đến 31/5/2012 cho thấy, khối ngân hàng thương mại nhà nước chiếm quá nửa “cục máu đông” nợ xấu, chiếm tỉ trọng tới 50,5%; nhóm thứ hai là khối thương mại cổ phần với 27,8%; nhóm ngân hàng nước ngoài chiếm khá nhỏ (do sự hạn chế về quy mô) với 4,2%; nhóm các tổ chức tín dụng khác chiếm 17,5%. Ở phân vùng thứ hai từ chính các tổ chức tín dụng, dữ liệu cập nhật đến 31/3/2012 cho thấy, nhóm G14 choán một phần rộng lớn của “miếng bánh”, chiếm tới 62%; đáng chú ý là nhóm ngân hàng “có vấn đề” chiếm 10%; nhóm còn lại chiếm 28%.

“Nợ xấu là tắc nghẽn duy nhất của dòng chảy tín dụng trong nền kinh tế. Càng sớm tái cơ cấu ngành ngân hàng ngày nào, cơ hội ổn định kinh tế - xã hội sẽ càng rõ rệt hơn trong điều tiết của Chính phủ”, chuyên gia Nguyễn Thị Mùi khẳng định.

Hữu Tùng

Báo Năng lượng Mới số 143, ra ngày 3/8/2012

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,800 ▲200K 85,000 ▲200K
AVPL/SJC HCM 82,700 ▲100K 84,900 ▲100K
AVPL/SJC ĐN 82,700 ▲100K 84,900 ▲100K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,600 ▼850K 74,500 ▼950K
Nguyên liệu 999 - HN 73,500 ▼850K 74,400 ▼950K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,800 ▲200K 85,000 ▲200K
Cập nhật: 02/05/2024 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.400 ▼400K 75.200 ▼400K
TPHCM - SJC 82.600 ▼400K 84.800 ▼400K
Hà Nội - PNJ 73.400 ▼400K 75.200 ▼400K
Hà Nội - SJC 82.600 ▼400K 84.800 ▼400K
Đà Nẵng - PNJ 73.400 ▼400K 75.200 ▼400K
Đà Nẵng - SJC 82.600 ▼400K 84.800 ▼400K
Miền Tây - PNJ 73.400 ▼400K 75.200 ▼400K
Miền Tây - SJC 82.900 ▼100K 85.100 ▼100K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.400 ▼400K 75.200 ▼400K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▼400K 84.800 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.400 ▼400K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▼400K 84.800 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.400 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.300 ▼400K 74.100 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.330 ▼300K 55.730 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.100 ▼230K 43.500 ▼230K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.580 ▼160K 30.980 ▼160K
Cập nhật: 02/05/2024 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,355 ▼30K 7,550 ▼40K
Trang sức 99.9 7,345 ▼30K 7,540 ▼40K
NL 99.99 7,350 ▼30K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,330 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,420 ▼30K 7,580 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,420 ▼30K 7,580 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,420 ▼30K 7,580 ▼40K
Miếng SJC Thái Bình 8,280 ▼40K 8,490 ▼30K
Miếng SJC Nghệ An 8,280 ▼40K 8,490 ▼30K
Miếng SJC Hà Nội 8,280 ▼40K 8,490 ▼30K
Cập nhật: 02/05/2024 12:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,900 ▼100K 85,100 ▼100K
SJC 5c 82,900 ▼100K 85,120 ▼100K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,900 ▼100K 85,130 ▼100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,400 ▼400K 75,100 ▼400K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,400 ▼400K 75,200 ▼400K
Nữ Trang 99.99% 73,300 ▼400K 74,300 ▼400K
Nữ Trang 99% 71,564 ▼396K 73,564 ▼396K
Nữ Trang 68% 48,179 ▼272K 50,679 ▼272K
Nữ Trang 41.7% 28,636 ▼167K 31,136 ▼167K
Cập nhật: 02/05/2024 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,148.18 16,311.29 16,834.62
CAD 18,018.42 18,200.42 18,784.35
CHF 26,976.49 27,248.98 28,123.22
CNY 3,430.65 3,465.30 3,577.02
DKK - 3,577.51 3,714.51
EUR 26,482.03 26,749.52 27,934.14
GBP 30,979.30 31,292.23 32,296.19
HKD 3,161.16 3,193.09 3,295.54
INR - 303.13 315.25
JPY 157.89 159.49 167.11
KRW 15.95 17.72 19.32
KWD - 82,135.18 85,419.03
MYR - 5,264.19 5,379.01
NOK - 2,254.80 2,350.53
RUB - 258.71 286.40
SAR - 6,743.13 7,012.72
SEK - 2,277.97 2,374.70
SGD 18,186.80 18,370.51 18,959.90
THB 606.79 674.21 700.03
USD 25,114.00 25,144.00 25,454.00
Cập nhật: 02/05/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,331 16,431 16,881
CAD 18,247 18,347 18,897
CHF 27,234 27,339 28,139
CNY - 3,465 3,575
DKK - 3,597 3,727
EUR #26,736 26,771 28,031
GBP 31,422 31,472 32,432
HKD 3,172 3,187 3,322
JPY 159.35 159.35 167.3
KRW 16.64 17.44 20.24
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,262 2,342
NZD 14,792 14,842 15,359
SEK - 2,276 2,386
SGD 18,218 18,318 19,048
THB 634.6 678.94 702.6
USD #25,173 25,173 25,454
Cập nhật: 02/05/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,154.00 25,454.00
EUR 26,614.00 26,721.00 27,913.00
GBP 31,079.00 31,267.00 32,238.00
HKD 3,175.00 3,188.00 3,293.00
CHF 27,119.00 27,228.00 28,070.00
JPY 158.64 159.28 166.53
AUD 16,228.00 16,293.00 16,792.00
SGD 18,282.00 18,355.00 18,898.00
THB 667.00 670.00 698.00
CAD 18,119.00 18,192.00 18,728.00
NZD 14,762.00 15,261.00
KRW 17.57 19.19
Cập nhật: 02/05/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25140 25140 25450
AUD 16355 16405 16915
CAD 18269 18319 18771
CHF 27390 27440 28002
CNY 0 3463.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26904 26954 27664
GBP 31509 31559 32219
HKD 0 3200 0
JPY 160.42 160.92 165.43
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.033 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14816 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18431 18481 19042
THB 0 645.4 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 02/05/2024 12:00