Sự sụp đổ của giá dầu đã cho mảng đá phiến của Mỹ một bài học

09:25 | 07/12/2021

5,733 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Ngành công nghiệp đá phiến của Mỹ đã học được một số bài học quý giá từ hai đợt suy thoái giá dầu lớn gần đây nhất. Các nhà khoan đá phiến của Mỹ dự kiến ​​sẽ giữ kế hoạch chi tiêu năm 2022 trong tầm kiểm soát, trong khi mgành dầu khí của nước này vẫn cảnh giác với các chính sách về nhiên liệu hóa thạch của chính quyền Tổng thống Joe Biden.

Đợt điều chỉnh giá dầu lớn vào tháng 11 năm 2021, được coi là tháng tồi tệ nhất đối với dầu thô kể từ tháng 3 năm 2020, diễn ra ngay khi các nhà sản xuất dầu của Mỹ đang soạn thảo kế hoạch ngân sách vốn cho năm 2022.

Sự sụt giảm về giá khiến dầu thô WTI từ hơn 80 USD/thùng vào đầu tháng 11 xuống còn 67 USD/thùng vào đầu tháng 12, không quá tàn phá đối với mảng đá phiến của Mỹ như hai năm trước đây khi các nhà sản xuất đang khoan với tốc độ kỷ lục và đang đầu tư dòng tiền nhiều nhất, và thậm chí xa hơn thế, vào các giếng mới.

Sự sụp đổ của giá dầu đã cho mảng đá phiến của Mỹ một bài học

Sự sụt giảm giá hiện tại không làm nản lòng các nhà sản xuất dầu của Mỹ. Họ đang giữ các kế hoạch chi tiêu có kỷ luật và dự kiến ​​sẽ tăng ngân sách một cách thận trọng cho năm tới, lưu ý rằng biến động giá dầu vẫn tiếp diễn và mỗi biến thể mới của Covid đều có thể khiến thị trường rơi vào tình trạng bán chạy - như Omicron đã làm vào tuần trước.

Ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ không vội đầu tư vào quá nhiều giàn khoan mới vì họ cũng cảnh giác với các chính sách của chính quyền của Tổng thống Joe Biden đối với dầu khí và cho biết Cơ quan quản lý kêu gọi OPEC + bơm thêm trong khi áp đặt các biện pháp hạn chế đối với hoạt động khoan trên đất liên bang của Mỹ. Các công ty dầu mỏ thậm chí còn đang bị Cơ quan quản lý khởi xướng một cuộc điều tra về việc liệu các công ty dầu mỏ có bị cáo buộc thông đồng để làm giá xăng cao nhất trong 7 năm hay không, tất cả những điều này chỉ vì lòng tham “trục lợi” và “đục khoét giá”, như các quan chức cấp cao của Mỹ và các nhà lập pháp đảng Dân chủ, chẳng hạn như Thượng nghị sĩ Elizabeth Warren, đã nói trong những tuần gần đây.

Khi giá dầu bắt đầu phục hồi trong năm nay, các nhà sản xuất dầu đá phiến đã thận trọng trong các kế hoạch tương lai của mình và không ai chi tiêu vượt quá khả năng của họ. Hoạt động khoan đã bắt đầu khởi sắc, nhưng nó được đo lường và từ từ vì các nhà sản xuất dầu tìm cách thưởng cho các cổ đông trước tiên bằng dòng tiền kỷ lục.

Một số nhà sản xuất có thể đã cảm thấy trong những ngày gần đây rằng họ đã bỏ lỡ cơ hội để thúc đẩy hoạt động khoan và sản xuất dầu ở mức 80 USD/thùng, nhà phân tích năng lượng David Blackmon lập luận trên Forbes.

Tuy nhiên, hạn chế và trả lại lợi nhuận cho cổ đông là điều đúng đắn cần làm trong năm nay, sau khi nhu cầu và giá dầu phục hồi từ đợt giảm mạnh do đại dịch gây ra vào năm 2020.

Các công ty dầu mỏ của Mỹ đã học hỏi được từ những sai lầm trong quá khứ và không hướng đến việc “chìm sâu vào quên lãng” như họ đã từng làm trước khi giá dầu sụt giảm vào năm ngoái.

Rystad Energy cho biết tỷ lệ tái đầu tư giữa các công ty tập trung vào đá phiến, không bao gồm các công ty lớn, đạt mức thấp nhất mọi thời đại trong quý 3 và dự kiến ​​sẽ tiếp tục giảm trong quý này, Rystad Energy cho biết vào tháng trước.

Công ty nghiên cứu cũng cho biết vào tháng 11: “Ngay cả khi không có các điều chỉnh tăng mạnh cho năm tới, lợi nhuận cao kỷ lục trong quý thứ ba và kỳ vọng tăng trưởng vừa phải vào năm 2022 là một sự thay đổi ấn tượng đối với tập đoàn".

Rystad Energy nhận thấy các công ty Mỹ tăng tổng chi tiêu lên 19,4% vào năm 2022 lên 83,4 tỷ USD, đây sẽ là mức cao nhất kể từ khi đại dịch bắt đầu. Công ty nghiên cứu cho biết thêm, điều này báo hiệu ngành công nghiệp đang trỗi dậy sau một thời kỳ bất ổn và biến động kéo dài.

Sự biến động trên thị trường dầu mỏ sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao khi các chuyên gia y tế và các nhà sản xuất vắc xin nghiên cứu biến thể Covid mới. Nhưng các nhà sản xuất đá phiến của Mỹ vẫn giữ vững lập trường và lập kế hoạch với sự biến động và phần thưởng cho các cổ đông.

Tuy nhiên, không chỉ sự không chắc chắn và biến động trên thị trường dầu mỏ khiến đá phiến của Mỹ thận trọng về các kế hoạch trong tương lai. Các chính sách về dầu theo kế hoạch của chính quyền Tổng thống Joe Biden, về cơ bản là làm cho dầu thô đắt hơn để sản xuất, không giúp ích gì cả.

Sau khi Hạ viện thông qua dự luật về khí hậu và xã hội của Tổng thống Biden, hiện đang được trình lên Thượng viện, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của Viện Dầu mỏ Mỹ (API) Mike Sommers cho biết: “Dự luật này đánh thuế năng lượng của Mỹ, hạn chế khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên của chúng ta và tiến bộ tương tự loại chiến lược 'nhập khẩu nhiều dầu' mà chính quyền này đã và đang thúc đẩy như một giải pháp. Chúng tôi kêu gọi Thượng viện bác bỏ những chính sách sai lầm này và tập trung vào các giải pháp khí hậu vừa giảm lượng khí thải vừa đảm bảo người Mỹ được tiếp cận với nguồn năng lượng hợp lý và đáng tin cậy mà lĩnh vực này cung cấp hàng ngày ”.

Khi chính quyền Joe Biden tăng cường kêu gọi OPEC + thúc đẩy sản xuất để giảm giá xăng dầu đang tăng cao ở Mỹ, Hội đồng Thăm dò và Sản xuất Mỹ cho biết: “Điều tồi tệ nhất mà Chính quyền có thể làm đối với giá năng lượng là hạn chế nguồn cung bằng cách thực hiện các chính sách gây khó khăn hơn sản xuất năng lượng”.

Nhóm cũng lưu ý rằng có các giải pháp trong nước để giảm giá năng lượng, bao gồm đảm bảo tiếp tục sản xuất dầu và khí đốt trên đất liền và vùng biển của liên bang, các quy định hợp lý về khí mê-tan, và không đánh thuế ngành công nghiệp nhiều hơn vì tăng phí và thuế hạn chế nguồn vốn sẵn có để đầu tư và thúc đẩy tăng chi phí.

Ngành công nghiệp đá phiến của Mỹ không hài lòng với việc Chính phủ tiếp tục tham gia với OPEC + về nguồn cung dầu, trong khi có nguồn cung dầu như vậy,và nó rất dồi dào, ở Mỹ.

“Tôi nghĩ trước hết bạn, bạn ở nhà, bạn hỏi bạn bè của bạn, và bạn yêu cầu hàng xóm của bạn làm điều đó. Và sau đó nếu chúng tôi không làm được, bạn hãy gọi cho một số quốc gia khác, ”Giám đốc điều hành của Occidental, Vicki Hollub nói với CNBC vào tháng trước.

Anh Ngọc (Nguồn: Oilprice)

Các ngân hàng tiếp tục tài trợ cho nhiên liệu hoá thạch bất chấp các cam kết về khí hậuCác ngân hàng tiếp tục tài trợ cho nhiên liệu hoá thạch bất chấp các cam kết về khí hậu
Giá vàng hôm nay 7/12: Bitcoin lao dốc, giá vàng vẫn đi ngang khi đồng USD mạnh hơnGiá vàng hôm nay 7/12: Bitcoin lao dốc, giá vàng vẫn đi ngang khi đồng USD mạnh hơn
ExxonMobil công bố kế hoạch chi tiêu và lợi nhuận đến năm 2027ExxonMobil công bố kế hoạch chi tiêu và lợi nhuận đến năm 2027
Ả Rập Xê-út tăng giá bán dầu đối với khách hàng châu Á và MỹẢ Rập Xê-út tăng giá bán dầu đối với khách hàng châu Á và Mỹ
Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (29/11-5/12)Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (29/11-5/12)
Cuộc chiến Cuộc chiến "vàng đen" sôi sục và sự ngập ngừng "đắt giá" của Trung Quốc
Goldman Sachs: Giá dầu vẫn có xu hướng tăng bất chấp OPEC+ bơm thêmGoldman Sachs: Giá dầu vẫn có xu hướng tăng bất chấp OPEC+ bơm thêm

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 119,200
AVPL/SJC HCM 117,200 119,200
AVPL/SJC ĐN 117,200 119,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,970 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,960 11,240
Cập nhật: 13/05/2025 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.500 115.000
TPHCM - SJC 117.200 119.200
Hà Nội - PNJ 112.500 115.000
Hà Nội - SJC 117.200 119.200
Đà Nẵng - PNJ 112.500 115.000
Đà Nẵng - SJC 117.200 119.200
Miền Tây - PNJ 112.500 115.000
Miền Tây - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.500
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.300 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.190 114.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.480 113.980
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.250 113.750
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.750 86.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.810 67.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.410 47.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.760 105.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.680 70.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.270 74.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.710 78.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.700 43.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.530 38.030
Cập nhật: 13/05/2025 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,040 11,490
Trang sức 99.9 11,030 11,480
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,250 11,550
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,250 11,550
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,250 11,550
Miếng SJC Thái Bình 11,700 11,920
Miếng SJC Nghệ An 11,700 11,920
Miếng SJC Hà Nội 11,700 11,920
Cập nhật: 13/05/2025 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16082 16348 16930
CAD 18047 18322 18945
CHF 30072 30446 31104
CNY 0 3358 3600
EUR 28215 28481 29517
GBP 33440 33828 34769
HKD 0 3201 3404
JPY 168 172 178
KRW 0 17 19
NZD 0 14956 15549
SGD 19327 19607 20141
THB 691 754 808
USD (1,2) 25699 0 0
USD (5,10,20) 25738 0 0
USD (50,100) 25766 25800 26150
Cập nhật: 13/05/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,787 25,787 26,147
USD(1-2-5) 24,756 - -
USD(10-20) 24,756 - -
GBP 33,808 33,900 34,810
HKD 3,273 3,283 3,382
CHF 30,371 30,465 31,321
JPY 172.18 172.49 180.18
THB 741.29 750.44 803.15
AUD 16,404 16,463 16,903
CAD 18,339 18,398 18,895
SGD 19,564 19,625 20,247
SEK - 2,615 2,706
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,811 3,943
NOK - 2,450 2,536
CNY - 3,562 3,659
RUB - - -
NZD 14,953 15,092 15,533
KRW 17 - 19.08
EUR 28,467 28,490 29,705
TWD 771.42 - 933.95
MYR 5,647.93 - 6,372.78
SAR - 6,806.82 7,164.68
KWD - 82,261 87,467
XAU - - -
Cập nhật: 13/05/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,217 28,330 29,430
GBP 33,558 33,693 34,660
HKD 3,265 3,278 3,384
CHF 30,101 30,222 31,116
JPY 171.19 171.88 178.92
AUD 16,281 16,346 16,875
SGD 19,510 19,588 20,121
THB 755 758 792
CAD 18,246 18,319 18,828
NZD 15,006 15,512
KRW 17.50 19.27
Cập nhật: 13/05/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16239 16339 16912
CAD 18219 18319 18876
CHF 30277 30307 31195
CNY 0 3563.1 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28443 28543 29315
GBP 33691 33741 34843
HKD 0 3355 0
JPY 171.47 172.47 178.98
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15047 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19469 19599 20332
THB 0 720.1 0
TWD 0 845 0
XAU 11800000 11800000 12000000
XBJ 11800000 11800000 12000000
Cập nhật: 13/05/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,190
USD20 25,770 25,820 26,190
USD1 25,770 25,820 26,190
AUD 16,322 16,472 17,538
EUR 28,545 28,695 29,870
CAD 18,170 18,270 19,592
SGD 19,564 19,714 20,181
JPY 172.78 174.28 178.94
GBP 33,810 33,960 35,160
XAU 11,798,000 0 12,002,000
CNY 0 3,446 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/05/2025 02:00