Nhìn lại kinh tế thế giới 7 tháng đầu năm

08:34 | 14/08/2012

1,855 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Những quan ngại của các chuyên gia về kinh tế toàn cầu năm 2012 đang dần trở thành hiện thực. Chỉ sau 7 tháng đầu năm, các số liệu công bố đã cho thấy viễn cảnh u ám của kinh tế thế giới với những khó khăn phức tạp từ các nền kinh tế trụ cột.

Tăng trưởng của Mỹ bắt đầu chậm lại…

Nền kinh tế Mỹ chưa đi vào suy thoái, nhưng tốc độ tăng trưởng đang thoái lùi rõ rệt. Nhiều số liệu kinh tế “trái chiều” nhau khiến giới chuyên gia chưa thể có kết luận nào cụ thể về nền kinh tế này, tuy nhiên có nhiều vấn đề bắt đầu xuất hiện từ bên trong kinh tế lớn nhất thế giới.

Tăng trưởng kinh tế Mỹ trong Quý II/2012 tiếp tục điều chỉnh giảm xuống mức 1,5%. Chỉ tiêu này từ lần công bố vào cuối Quý I đã giảm từ mức 3% xuống 2,2%. Tiêu dùng cá nhân chỉ tăng 1,5% trong Quý II/2012, chậm hơn rất nhiều so với mức tăng 2,4% trong Quý I/2012.

Cũng theo xu hướng chung trên toàn thế giới, chi tiêu người dân Mỹ có chiều hướng sụt giảm mạnh, các kế hoạch tiêu dùng đang bị hoãn lại do người dân lo ngại về nguồn thu nhập của họ không ổn định trong tương lai. 7 tháng đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ vẫn ở mức quanh 8% và gần đây nhất, trong tháng 7 đã tăng lên 8,3%. Bên cạnh đó, theo khảo sát của các tổ chức thống kê và an sinh xã hội thì chất lượng việc làm cũng như thu nhập của người lao động cũng có chiều hướng bất ổn.

Trong bối cảnh này, giới đầu tư đặt kỳ vọng vào một sự hỗ trợ mạnh mẽ, cụ thể từ chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Hòa Kỳ (FED). Mặc dù vậy, trong cuộc họp gần nhất của Ủy ban Thị trường mở Liên bang, FED vẫn tỏ ra rất thận trọng trong chính sách điều hành tiền tệ khi lặp lại điệp khúc: chưa có chính sách mới, chưa có gói hỗ trợ nhưng sẵn sàng hỗ trợ nếu thấy cần thiết… và điều này bắt đầu khiến các nhà đầu tư thất vọng. Hiện tại, lãi suất cơ bản vẫn được FED duy trì mức 0-0,25% và gói Operation twist (chương trình giảm lãi suất dài hạn xuống để kích thích đầu tư và tiêu dùng) được gia hạn tới hết năm 2012.

Eurozone suy thoái lan truyền

Với các số liệu kinh tế công bố trong 7 tháng đầu năm, dường như kinh tế châu Âu sẽ khó thoát khỏi suy thoái trong năm 2012. Chỉ số PMI sản xuất (phản ánh sức khỏe khu vực sản xuất) của khu vực đồng tiền chung châu Âu trong các tháng 5, 6, 7 đều dưới mức 50 và có chiều hướng giảm dần từ mức 45 xuống 44,8 và cuối cùng và 44,1.

Thất nghiệp tăng cao vượt mức 11%, mức cao kỷ lục kể từ năm 1995 đến nay, Tây Ban Nha vẫn là nước có tỉ lệ thất nghiệp cao nhất tại Eurozone (24.6%).

Trong 2 năm qua đã diễn ra hàng loạt các cuộc biểu tình của công nhân Hy Lạp phản đối các chính sách tài chính và luật lao động mới của nước này.

Một số nền kinh tế lớn trong khối này đã chính thức suy thoái với mức GDP âm tới quý thứ 2 liên tiếp. Bên cạnh đó, chương trình thắt lưng buộc bụng để đổi lấy gói cứu trợ có thể sẽ trở thành xu hướng chung mà không phải chỉ có mỗi Hy Lạp là nước duy nhất phải thực hiện chính sách này để đổi lấy gói cứu trợ trước mắt. Điều này cho thấy châu Âu không thể phục hồi trong một sớm một chiều.

Khủng hoảng nợ công đang tăng nhanh và lan rộng với tốc độ đáng lo ngại. Hai nền kinh tế lớn là Ý và Tây Ban Nha hiện đang ngày một khó khăn khi huy động vốn trên thị trường trái phiếu. Lợi tức trái phiếu chính phủ 10 năm của Tây Ban Nha tăng vượt 7% trong Quý II và suốt tháng 7 tiếp tục duy trì mức cao hơn 7%. Mặc dù vậy, các quốc gia này cũng không thể mãi đi vay mượn với chi phí quá cao và vấn đề xin gói cứu trợ chỉ còn là thời gian. Tây Ban Nha là quốc gia lớn thứ 3 trong khối châu Âu và nếu tính cả các nước đã phải cứu trợ một phần thì chỉ trong 7 tháng đầu năm, số quốc gia xin cứu trợ từ quỹ giải cứu tăng từ 2 lên 5 quốc gia.

Quỹ giải cứu châu Âu bắt đầu tỏ ra rằng, quy mô của nó không đủ lớn để có thể giải quyết được vấn đề. Điều này buộc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) phải vào cuộc với những tuyên bố và động thái ban đầu khá mạnh mẽ. Sau khi giảm lãi suất cơ bản xuống mức 0,75% nhằm hỗ trợ kinh tế, trong tháng 7 ECB tuyên bố rằng, sẵn sàng “bơm” mạnh tiền vào nền kinh tế và có thể thực hiện các biện pháp, chính sách tiền tệ không theo thông lệ nhằm kích thích nền kinh tế khối này. Mặc dù vậy, kết thúc tháng 7 ECB vẫn chưa đưa ra một chính sách cụ thể nào…

Các nước BRICS bị ảnh hưởng nặng nề

“BRICS” là tên gọi của tổ chức các nền kinh tế lớn mới nổi gồm Brazil, Nga (Russia), Ấn Độ (India), Trung Quốc (China) và Nam Phi (South Africa).

Một điển hình đáng nói đến, nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới là Trung Quốc bắt đầu thoái lùi tốc độ tăng trưởng. GDP Quý II tại Trung Quốc giảm tốc về mức 7,6%, mức thấp nhất trong 3 năm trở lại đây. Điểm này cũng khá giống với kinh tế Ấn Độ, nền kinh tế các nước mới nổi, đặc biệt các nước phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu có chiều hướng suy giảm do những ảnh hưởng suy thoái trên toàn cầu và do sức mua giảm mạnh.

Trong bối cảnh đó, chính phủ các nước thực hiện những chính sách tiền tệ kích thích kinh tế, hoặc đưa ra các cam kết, hứa hẹn cũng là hiện tượng chung đối với các nền kinh tế mới nổi. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã 3 lần hạ lãi suất cho vay, 2 lần hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc chỉ trong 7 tháng đầu năm. Nhìn từ bên ngoài có cảm nhận rằng, có vẻ như Chính phủ Trung Quốc đang hướng ưu tiên dần sang mục tiêu tăng trưởng. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là độ rộng và chiều sâu của các biện pháp kích thích tăng trưởng sẽ đến mức độ nào mới là quan trọng và tác động của sự thay đổi chính sách tới nền kinh tế sẽ vẫn là một câu hỏi lớn…

Có thể thấy rằng, tình hình kinh tế thế giới 7 tháng không hề có nhiều điểm sáng. Khủng hoảng nợ công và suy thoái kinh tế có sức lan truyền nhanh và vô cùng mạnh mẽ, có tầm ảnh hưởng rất rộng và tác động mạnh lên các nền kinh tế toàn cầu, chỉ khác nhau là mức độ ảnh hưởng ít hay nhiều. Những con số trực quan cho thấy trong những tháng còn lại của năm 2012 nền kinh tế toàn cầu sẽ khó có những đột phá tích cực. Có chăng, cái mà nhà đầu tư mong đợi trong thời gian này chính là sự thay đổi của chính sách điều hành tại các quốc gia, các biện pháp để giải quyết những vấn đề đang là rào cản đối với sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu.

Hồng Dương

(Báo Năng lượng Mới số 146, ra ngày 14/8/2012)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 27/04/2024 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,235 16,255 16,855
CAD 18,226 18,236 18,936
CHF 27,210 27,230 28,180
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,244 26,454 27,744
GBP 31,087 31,097 32,267
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.41 156.56 166.11
KRW 16.2 16.4 20.2
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,217 2,337
NZD 14,797 14,807 15,387
SEK - 2,241 2,376
SGD 18,043 18,053 18,853
THB 631.87 671.87 699.87
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 27/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 27/04/2024 01:02