Một năm dẹp loạn thị trường vàng

07:00 | 27/12/2013

1,587 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nhìn lại bức tranh toàn cảnh thị trường vàng năm 2013 có thể khẳng định, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tìm ra “phác đồ điều trị” cho thị trường vàng, qua đó hoàn thành tốt nhiệm vụ chống vàng hóa, đẩy lùi tình trạng đầu cơ, thao túng, lũng đoạn thị trường trong nền kinh tế. Thực tế, công tác điều hành, quản lý thị trường vàng của NHNN thời gian qua cũng đã được Đảng, Chính phủ, giới chuyên gia và đặc biệt là Quốc hội đánh giá rất cao. Thị trường vàng đã chuyển biến theo hướng rất tích cực, ổn định cả về cung cầu lẫn giá cả, trật tự thị trường được thiết lập...

Năng lượng Mới số 286

Nghị định 24: Lập trật tự cho thị trường vàng

Đưa quan điểm về công tác điều hành, quản lý thị trường vàng từ khi Nghị định 24 có hiệu lực, TS Vũ Đình Ánh - Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Thị trường giá cả (Bộ Tài chính) cho rằng: Sau hơn một năm thực hiện Nghị định 24, thể chế quản lý và kinh doanh trên thị trường vàng miếng đã được cơ bản hoàn thiện và vận hành thông suốt, một mặt đã lập lại trật tự trên thị trường vàng vốn rất khó kiểm soát và nhiều biến động trước đây, mặt khác đã cụ thể hóa và sử dụng công cụ quản lý, can thiệp của Nhà nước vào thị trường vàng một cách hữu hiệu, hợp lý và hiệu quả. Chính sách quản lý thị trường vàng vẫn cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện, song không phải là quay trở lại như trước khi có Nghị định 24 mà là theo hướng xử lý tốt hơn mối quan hệ giữa chính sách quản lý ngoại hối và vàng với chính sách tiền tệ tín dụng nhằm củng cố, lành mạnh hóa hệ thống tài chính quốc gia, phát triển hệ thống thị trường tài chính lành mạnh, có tổ chức; đồng thời hướng các nguồn lực kinh tế tài chính tập trung vào phát triển kinh tế - xã hội.

Diễn biế trên thị trường vàng thời gian qua cho thấy, NHNN đã áp dụng các giải pháp đồng bộ để triển khai khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng, mà nòng cốt là Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ, đồng thời kiên quyết triển khai các biện pháp để chấm dứt hoạt động huy động, cho vay vốn bằng vàng tại các tổ chức tín dụng. Kết quả là thị trường vàng miếng trong nước đã tương đối ổn định trước những biến động bất thường của giá vàng thế giới; không còn hiện tượng “làm giá”, tạo sóng, thao túng thị trường để kiếm lời của giới đầu cơ; không còn những cơn “sốt vàng”, không còn hiện tượng người dân đổ xô đi mua, bán vàng như trước đây, nhu cầu nắm giữ vàng miếng trong dân đã giảm đáng kể so với giai đoạn trước; đến nay toàn bộ quan hệ huy động, cho vay vốn bằng vàng đã được chuyển sang quan hệ mua, bán vàng, tình trạng “vàng hóa” trong hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) đã được xóa bỏ. Đây là bước tiến quan trọng, đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế.

Một thống kê của NHNN cũng cho thấy, tính đến hết tháng 6/2013 (thời điểm các ngân hàng, TCTD hoàn thành tất toán trạng thái vàng), tất cả 18 TCTD có hoạt động huy động vàng đã hoàn thành việc mua đủ hơn 100 tấn vàng để tất toán số dư huy động vốn bằng vàng so với thời điểm ngày 30/4/2012. Các tổ chức tín dụng cũng đã tích cực giảm dần số dư cho vay bằng vàng, và đến cuối tháng 10-2013, dư nợ cho vay vàng của toàn hệ thống chỉ còn khoảng 5,6 tấn (đã giảm hơn 75% so với thời điểm ngày 30/4/2012). Ngoài ra, nhu cầu nắm giữ vàng trong nền kinh tế đã giảm đáng kể so với giai đoạn trước, giảm 60-100 tấn/năm xuống còn khoảng 33 tấn/năm (số liệu khảo sát của NHNN)...

Như vậy có thể khẳng định, với các giải pháp đồng bộ mà NHNN đã triển khai trong thời gian qua, đến nay tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế đã được ngăn chặn đáng kể. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô trong nước hiện nay chưa thực sự ổn định và bền vững, để tiến tới mục tiêu xóa bỏ tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế, trong thời gian tới NHNN sẽ phối hợp với các bộ, ngành chức năng tiếp tục triển khai các giải pháp đồng bộ, linh hoạt và hiệu quả để ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, phát triển kinh tế bền vững và nâng cao lòng tin của người dân vào giá trị của đồng Việt Nam.

Trong đó việc chấm dứt huy động, cho vay vốn bằng vàng của các tổ chức tín dụng về cơ bản đã kết thúc và mang lại một số lợi ích quan trọng như: Loại bỏ toàn bộ rủi ro liên quan đến vàng ra khỏi hoạt động của TCTD, chấm dứt tình trạng “vàng hóa” chính thức trong hệ thống tổ chức tín dụng, làm giảm tính hấp dẫn của vàng miếng, giảm thiểu hoạt động đầu cơ quá mức vào vàng, chuyển quan hệ huy động, cho vay vàng sang quan hệ mua, bán vàng từ đó chuyển hóa nguồn lực bằng vàng sang VND để đưa vào sản xuất, kinh doanh hoặc tăng tiết kiệm thông qua tăng tiền gửi VND tại hệ thống các tổ chức tín dụng.

Đặc biệt, thông qua các chính sách quản lý, điều hành thị trường vàng, NHNN đã giảm tối thiểu khối lượng vàng nhập khẩu, qua đó tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước, trong khi vẫn đảm bảo các tổ chức tín thực hiện tất toán số dư huy động vàng theo đúng quy định, nhờ đó thị trường vàng ổn định hơn, sự mất cân đối về cung cầu vàng trong nước đã được thu hẹp, loại trừ các tác động tiêu cực của thị trường vàng tới tỷ giá và thị trường ngoại hối...

Đấu thầu vàng: Cân đối cung - cầu

Nếu như Nghị định 24 đã thiết lập hành lang pháp lý chặt chẽ cho thị trường vàng, qua đó từng bước đẩy lùi, tiến tới xóa bỏ tình trạng vàng hóa, đầu cơ, thao túng thị trường thì đấu thầu vàng miếng được giới chuyên gia đánh giá là một trong những “vị thuốc” đặc trị đối với thị trường vàng. Phân tích cụ thể hơn, trao đổi với Năng lượng Mới, một chuyên gia tài chính cho biết: Đấu thầu vàng miếng đã ngăn ngừa được hiện tượng đầu cơ, làm giá do quy trình đấu thầu bán vàng miếng được thực hiện thông suốt, an toàn, công khai, minh bạch. Giá trúng thầu được xác định trên cơ sở cạnh tranh, luôn bám sát giá thị trường và định hướng thị trường góp phần ngăn ngừa một cách hiệu quả hiện tượng đầu cơ, làm giá và khẳng định vai trò điều tiết của Nhà nước. Việc NHNN lựa chọn hình thức đấu thầu bán vàng miếng là biện pháp phù hợp nhất để đáp ứng nhu cầu mua vàng miếng của người dân, đồng thời đảm bảo người gửi vàng tại tổ chức tín dụng được chi trả vàng miếng đúng hạn.

Như đã đề cập ở trên, thông qua các phiên đấu thầu vàng miếng, NHNN đã “bơm” một lượng vàng vừa đủ để các tổ chức tín dụng tất toán trạng thái vàng và cũng đủ để đáp ứng nhu cầu vàng của nền kinh tế. Thực tế này cho thấy, NHNN đã từng bước tạo dựng được sự ổn định trên thị trường vàng, qua đó tạo sự cân đối cung - cầu vàng trong nền kinh tế. Và đặc biệt, thị trường vàng miếng đã ổn định, không còn các cơn “sốt vàng” gây bất ổn xã hội, giá vàng trong nước có xu hướng giảm ngay cả khi giá vàng thế giới có biến động lớn và phức tạp, làm mất đi động lực đầu cơ, làm giá, tạo sóng kiếm lời của giới đầu cơ và do vậy góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế.

Một điểm nữa, do các tổ chức tín dụng đã tất toán số dư huy động, cho vay vốn bằng vàng và biện pháp bán vàng can thiệp thị trường của NHNN cũng đã phát huy hiệu quả nên khoảng cách giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới đã thu hẹp dần. Đến cuối tháng 10/2013, chênh lệch giữa giá vàng thế giới và giá vàng trong nước dao động quanh mức 2,8 triệu đồng/lượng. Có thể khẳng định rằng trong điều kiện khuôn khổ pháp lý mới và hoạt động can thiệp thị trường của NHNN, về trung và dài hạn, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới sẽ được thu hẹp; về ngắn hạn, khi giá vàng thế giới có biến động đột biến thì chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới là tất yếu và cần thiết giúp cho thị trường trong nước không bị chao đảo theo biến động của thị trường vàng quốc tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.

Ngoài ra, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, NHNN can thiệp thị trường vàng không vì mục tiêu lợi nhuận mà chỉ nhằm điều tiết và quản lý Nhà nước đối với thị trường. Trước đây, toàn bộ chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới đều thuộc về giới đầu cơ và kinh doanh vàng, nay thuộc về ngân sách Nhà nước để phục vụ quốc kế dân sinh. Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền sở hữu, tích trữ, mua bán vàng miếng của tổ chức và cá nhân, nhưng không khuyến khích kinh doanh vàng miếng vì không tạo ra giá trị gia tăng của cải vật chất cho xã hội, mà ngược lại còn gây lãng phí một nguồn vốn to lớn để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Theo TS Nguyễn Trí Hiếu: NHNN đã nỗ lực và có thành công nhất định trên các lĩnh vực quản lý thị trường vàng, ổn định tỷ giá và điều hành lãi suất. Về lĩnh vực quản lý thị trường vàng, NHNN đã khẳng định thiết lập trật tự thị trường, sau đó ổn định giá. Trật tự trên thị trường vàng đã được thiết lập, không còn hiện tượng người dân đổ xô đi mua vàng mỗi lần xảy ra đoản cung, tạo ra những cơn sốt vàng gây xáo trộn thị trường; chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới đã được thu hẹp đáng kể; NHNN cũng thành công trong việc chống “vàng hóa”, cụ thể NHNN đã tách vai trò người huy động và cho vay vàng ra khỏi các ngân hàng thương mại.

Đó chính là cái được mà NHNN đã làm được trong một năm qua và đây là điều rất đáng được ghi nhận, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế vẫn còn đang khó khăn, tiềm ẩn nhiều yếu tố biến động, sự ổn định của thị trường - một trong những thị trường có tính chất nhạy cảm nhất hiện nay đã góp phần quan trọng giúp bức tranh kinh tế đất nước từng bước cải thiện, lấy lại đà tăng trưởng!

Thanh Ngọc

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 81,000
AVPL/SJC HCM 79,000 81,000
AVPL/SJC ĐN 79,000 81,000
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 69,450
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 69,350
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 81,000
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 69.800
TPHCM - SJC 79.100 81.100
Hà Nội - PNJ 68.500 69.800
Hà Nội - SJC 79.100 81.100
Đà Nẵng - PNJ 68.500 69.800
Đà Nẵng - SJC 79.100 81.100
Miền Tây - PNJ 68.500 69.800
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 69.800
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 69.200
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 52.050
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 40.630
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 28.940
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 6,990
Trang sức 99.9 6,825 6,980
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 7,020
NL 99.99 6,830
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830
Miếng SJC Thái Bình 7,930 8,115
Miếng SJC Nghệ An 7,930 8,115
Miếng SJC Hà Nội 7,930 8,115
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 69,750
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 69,850
Nữ Trang 99.99% 68,400 69,250
Nữ Trang 99% 67,064 68,564
Nữ Trang 68% 45,245 47,245
Nữ Trang 41.7% 27,030 29,030
Cập nhật: 29/03/2024 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,853 15,873 16,473
CAD 18,010 18,020 18,720
CHF 27,004 27,024 27,974
CNY - 3,362 3,502
DKK - 3,501 3,671
EUR #25,924 26,134 27,424
GBP 30,761 30,771 31,941
HKD 3,040 3,050 3,245
JPY 159.69 159.84 169.39
KRW 16.18 16.38 20.18
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,206 2,326
NZD 14,575 14,585 15,165
SEK - 2,244 2,379
SGD 17,817 17,827 18,627
THB 627.99 667.99 695.99
USD #24,555 24,595 25,015
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 01:02