Khi ngân hàng cần doanh nghiệp

08:00 | 16/11/2014

978 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Khi các doanh nghiệp tiếp tục bài ca khó tiếp cận được vốn vay khiến người ta nghĩ ngay lỗi do các ngân hàng gây khó khăn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, ít ai biết nhiều ngân hàng thương mại cũng rất “khổ” khi thừa vốn mà không thể cho vay.

Năng lượng Mới số 373

“Săn” doanh nghiệp tốt

Ông Văn Đức Mười, Tổng giám đốc VISSAN nhận định: Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ ở nước ta tiếp cận vay vốn rất thiếu chuyên nghiệp. Họ cứ muốn ngân hàng cho vay nhưng không có tài sản đảm bảo và lại không muốn ngân hàng giám sát việc sử dụng đồng vốn đó như thế nào. Do đó, xét về nguyên tắc bảo vệ tín dụng thì ngân hàng không thể cho vay. Chính vì không đủ điều kiện theo quy định, không vay được vốn nên nhiều doanh nghiệp quay ra phàn nàn ngân hàng gây khó khăn. Nhưng đến thời điểm này phải khẳng định, ngân hàng cần doanh nghiệp hơn là doanh nghiệp cần ngân hàng, chỉ có điều ngân hàng không tìm ra được doanh nghiệp tốt để cho vay.

Từ đầu năm 2014 đến nay tăng trưởng tín dụng ở khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng ACB chỉ được 2%, so với tăng trưởng tín dụng chung của ngân hàng này là 7%. Điều này cho thấy, khả năng tăng trưởng tín dụng ở khu vực doanh nghiệp rất khó khăn mặc dù ngân hàng đã đưa ra nhiều gói tín dụng kích thích doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi nhưng vẫn không thu hút được khách hàng.

Nhiều ngân hàng thừa tiền nhưng không thể cho vay

Tại Viet Capital Bank, số vốn hạn mức cho doanh nghiệp vay với lãi suất ưu đãi là hơn 11.000 tỉ đồng nhưng đến nay số tiền doanh nghiệp không dùng là 2.450 tỉ đồng, chiếm khoảng 20%. Tổng giám đốc Viet Capital Bank Đỗ Duy Hưng lý giải: “Ngân hàng rất muốn cho doanh nghiệp vay nhưng các doanh nghiệp tốt ngân hàng lùng sục hết rồi, họ không còn nhu cầu vay thêm vốn, còn nhiều doanh nghiệp khác thì chưa đáp ứng được theo quy định”.

Tình hình cũng tương tự với EximBank. Ngân hàng này cam kết cho các doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn thị trường ở TP HCM là 300 tỉ đồng, nhưng đến nay mới giải ngân được 114 tỉ đồng; chương trình kết nối ngân hàng và doanh nghiệp với cam kết cho vay là 3.781 tỉ đồng nhưng 8 tháng đầu năm dư nợ chỉ đạt 1.841 tỉ đồng.

“Thậm chí có những hạn mức lên đến hơn 20.000 tỉ đồng nhưng các doanh nghiệp không sử dụng hết, mặc dù EximBank cũng rất đeo bám, tiếp cận khách hàng liên tục để biết khi nào doanh nghiệp cần sẽ giải ngân ngay, nhưng đến nay vẫn còn một lượng rất lớn hạn mức tín dụng ngân hàng cấp nhưng doanh nghiệp chưa dùng đến”, ông Nguyễn Quang Triết, Phó tổng giám đốc EximBank nói.

TS Trần Du Lịch, chuyên gia kinh tế nhận định: Để gỡ vướng mắc này, không chỉ ngành ngân hàng nỗ lực là đủ mà còn phải ở cả phía doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đang gặp khó khăn phải làm sao có kế hoạch phục hồi tốt, đáp ứng yêu cầu vay vốn thì ngân hàng mới có thể cho vay.

Theo Hiệp hội Doanh nghiệp TP HCM, các doanh nghiệp gặp khó khăn thì tài sản thế chấp để vay vốn lại rất hạn chế, do đó các doanh nghiệp khá thờ ơ với việc vay vốn bởi họ biết không đủ điều kiện vay.

Ngoài ra, theo các doanh nghiệp ngân hàng nên tăng cường cho doanh nghiệp vay trung, dài hạn chứ không chỉ những khoản ngắn hạn vì chỉ với những khoản vay trung, dài hạn doanh nghiệp mới có đủ thời gian để tái cơ cấu, tổ chức lại hoạt động sản xuất.

Tuy nhiên, các ngân hàng lại bị chốt chặn là chỉ được sử dụng 30% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn nhằm đảm bảo an toàn. Do đó, các ngân hàng chỉ có thể cho vay trung, dài hạn tối đa khoảng 45% tổng vốn huy động.

Dè dặt vì sợ nợ xấu

Ông Nguyễn Tiến Vĩnh, Phó giám đốc VietinBank Chi nhánh TP HCM phân trần: Mặc dù trong các hợp đồng thế chấp, các tổ chức tín dụng luôn có điều khoản quy định rõ ràng, trường hợp khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng được quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tuy nhiên, hầu như không bao giờ ngân hàng làm được chuyện này nếu khách hàng không đồng ý mà phải thông qua con đường khởi kiện ra tòa, thi hành án. Thủ tục khởi kiện ra tòa, trải qua một quá trình tố tụng, xét xử rất nhiêu khê, sau đó qua giai đoạn thi hành án lại càng khó khăn hơn gấp nhiều lần. Có những vụ cách đây hơn chục năm nhưng ngân hàng vẫn không thu hồi được nợ mặc dù có điều kiện thi hành án (có tài sản).

Công tác xử lý nợ chậm là nguy cơ đe dọa khả năng tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng, bởi gây ra tâm lý ức chế trong việc cho vay khách hàng mới, khiến cán bộ ngân hàng dè dặt hơn, kém tự tin trong việc thẩm định cho vay đối với những doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh.

“Tại ACB những cán bộ ngân hàng vướng nợ xấu trên 3% phải ngưng cho vay để tập trung xử lý nợ. Khi nào nợ xấu xuống dưới mức này thì mới được phục hồi lại chức danh và tiếp tục cho vay”, ông Đỗ Minh Toàn, Tổng giám đốc Ngân hàng ACB cho hay.

“Doanh nghiệp lúc nào cũng muốn ngân hàng đưa tiền ra một cách đơn giản, nhưng nếu đơn giản thì nợ xấu tăng lên, thu hồi lại không được. Chuyện này gây ra tâm lý e ngại cho cán bộ tín dụng lẫn phê duyệt tín dụng ở các ngân hàng bởi nếu có rủi ro thì khó thu hồi nợ là một chuyện, đôi khi còn liên quan đến vấn đề hình sự rất nghiêm trọng”, bà Trương Thị Thúy Nga, Phó tổng giám đốc kiêm Giám đốc Chi nhánh VietcomBank TP HCM phân trần.

Theo TS Trần Du Lịch, cần có một nghị quyết Quốc hội để xử lý vấn đề này, nếu không sẽ khó tháo gỡ các vướng mắc cho các ngân hàng. Ngân hàng muốn bán một tài sản thể chấp phải trải qua quá trình cực kỳ phức tạp, đặc biệt khi con nợ không hợp tác. Tình trạng này dẫn đến ách tắc trong thanh khoản về tài sản đảm bảo và khi không bán được tài sản thì thị trường mua bán nợ không thể hình thành.

Khó khăn lớn nhất, ảnh hưởng đến tín dụng là vấn đề xử lý nợ quá phức tạp. Những khó khăn này, không phải mới đây các ngân hàng mới đưa ra mà việc này đã nói đến rất nhiều từ những năm 2000 nhưng đến nay vẫn chưa được tháo gỡ gì nhiều. Thiết nghĩ cần quyết liệt trong tháo gỡ khó khăn này để các ngân hàng xử lý rốt ráo nợ xấu, từ đó mạnh dạn đưa vốn vào nền kinh tế.

Mai Phương

 

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC HCM 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC ĐN 81,800 ▼200K 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,250 ▼200K 74,200 ▼200K
Nguyên liệu 999 - HN 73,150 ▼200K 74,100 ▼200K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,800 ▼200K 84,000
Cập nhật: 25/04/2024 15:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼500K 84.300 ▼200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 15:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,305 ▼15K 7,510 ▼15K
Trang sức 99.9 7,295 ▼15K 7,500 ▼15K
NL 99.99 7,300 ▼15K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,280 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
Miếng SJC Thái Bình 8,220 ▼20K 8,420 ▼20K
Miếng SJC Nghệ An 8,220 ▼20K 8,420 ▼20K
Miếng SJC Hà Nội 8,220 ▼20K 8,420 ▼20K
Cập nhật: 25/04/2024 15:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▼500K 84,300 ▼200K
SJC 5c 82,000 ▼500K 84,320 ▼200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▼500K 84,330 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800 ▼100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900 ▼100K
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,000 ▼100K
Nữ Trang 99% 71,267 ▼99K 73,267 ▼99K
Nữ Trang 68% 47,975 ▼68K 50,475 ▼68K
Nữ Trang 41.7% 28,511 ▼42K 31,011 ▼42K
Cập nhật: 25/04/2024 15:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,095.55 16,258.14 16,779.72
CAD 18,066.09 18,248.58 18,834.02
CHF 27,070.48 27,343.92 28,221.15
CNY 3,431.82 3,466.48 3,578.23
DKK - 3,577.53 3,714.53
EUR 26,481.22 26,748.71 27,933.23
GBP 30,827.96 31,139.35 32,138.35
HKD 3,160.58 3,192.50 3,294.92
INR - 303.87 316.02
JPY 158.45 160.06 167.71
KRW 15.94 17.71 19.32
KWD - 82,205.72 85,492.23
MYR - 5,253.88 5,368.47
NOK - 2,265.78 2,361.97
RUB - 261.72 289.72
SAR - 6,750.57 7,020.45
SEK - 2,288.25 2,385.40
SGD 18,184.25 18,367.93 18,957.20
THB 604.07 671.19 696.90
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 25/04/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,273 16,373 16,823
CAD 18,271 18,371 18,921
CHF 27,296 27,401 28,201
CNY - 3,456 3,566
DKK - 3,592 3,722
EUR #26,700 26,735 27,995
GBP 31,283 31,333 32,293
HKD 3,161 3,176 3,311
JPY 159.42 159.42 167.37
KRW 16.65 17.45 20.25
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,270 2,350
NZD 14,834 14,884 15,401
SEK - 2,285 2,395
SGD 18,179 18,279 19,009
THB 630.52 674.86 698.52
USD #25,128 25,128 25,477
Cập nhật: 25/04/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,155.00 25,475.00
EUR 26,606.00 26,713.00 27,894.00
GBP 30,936.00 31,123.00 32,079.00
HKD 3,170.00 3,183.00 3,285.00
CHF 27,180.00 27,289.00 28,124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16,185.00 16,250.30 16,742.00
SGD 18,268.00 18,341.00 18,877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18,163.00 18,236.00 18,767.00
NZD 14,805.00 15,299.00
KRW 17.62 19.25
Cập nhật: 25/04/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25477
AUD 16311 16361 16871
CAD 18317 18367 18820
CHF 27478 27528 28081
CNY 0 3460.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26899 26949 27659
GBP 31409 31459 32126
HKD 0 3140 0
JPY 160.78 161.28 165.79
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14874 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18420 18470 19033
THB 0 642.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8220000 8220000 8390000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 15:45