Doanh nghiệp dự cảm không tốt về nền kinh tế

19:00 | 09/07/2013

613 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) – Kết quả khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa công bố cho thấy, các doanh nghiệp cảm nhận tình hình sản xuất, kinh doanh trong 6 tháng đầu năm nay còn xấu hơn nhiều so với 6 tháng cuối năm 2012. Thông tin tại hội thảo “Động thái doanh nghiệp Việt Nam 6 tháng đầu năm”, tổ chức tại TP HCM ngày 9/7.

Tồn kho tiếp tục là mối lo ngại

Khảo sát trên 700 doanh nghiệp đang hoạt động, VCCI đánh giá vấn đề hàng tồn kho đang là mối lo ngại hàng đầu hiện nay của doanh nghiệp, với 69,2% doanh nghiệp đang bị ứ đọng hàng tồn kho và khó khăn trong việc giải quyết đầu ra. Mặc dù, doanh nghiệp đã đưa ra nhiều giải pháp để giải quyết tình trạng này như: tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới, giảm giá bán, tăng cường khuyến mại, quảng cáo, mở rộng đưa hàng về tiêu thụ ở khu vực nông thôn… nhưng dường như các giải pháp này không thu được hiệu quả cao trong tình hình sức cầu trong và ngoài nước đều giảm sút.

Hội thảo “Động thái doanh nghiệp 6 tháng đầu năm”

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cho biết, lợi nhuận trên đơn vị sản phẩm giảm sút mạnh là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự ảm đảm của nền kinh tế, làm doanh nghiệp hết hào hứng kinh doanh nhưng trong tình hình hiện nay, doanh nghiệp khó tăng giá để tăng lợi nhuận mà phải chú trọng kiểm soát chi phí, tăng năng suất lao động để hạ giá thành, giúp hàng hóa dễ tiêu thụ.

Đó cũng là lý do giải thích cho việc dù lãi suất ngân hàng giảm nhưng nhu cầu vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm nay giảm so với 6 tháng cuối năm 2012.

TSKH Trần Quang Thắng - Viện trưởng Viện Kinh tế và Quản lý TP HCM cho rằng: Do doanh nghiệp còn gặp khó khăn về đầu ra cho sản phẩm hoặc bị vướng về năng lực cạnh tranh, phải hạ giá thành sản phẩm nhiều để giải phóng hàng tồn và có mức lợi nhuận quá thấp nên chỉ bán hàng cầm chừng và không muốn vay vốn ngân hàng vì không bù nổi chi phí lãi vay. Mặc khác, tỷ lệ doanh nghiệp vay vốn ngân hàng giảm còn do thủ tục phức tạp, chi phí giao dịch cao, doanh nghiệp không còn tài sản thế chấp, bị vướng nợ xấu…

Ngoài ra, tình trạng đầu tư sụt giảm cũng là biểu hiện kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn. Trong 6 tháng đầu năm 2013, cả nước có 38.908 doanh nghiệp mới được thành lập với tổng số vốn đầu tư gần 194.000 tỉ đồng. Số doanh nghiệp mới thành lập gia tăng so với cuối năm 2012 nhưng số vốn đầu tư giảm cho thấy doanh nghiệp rất thận trọng trong đưa vốn ra đầu tư trong giai đoạn hiện nay.

Bên cạnh đó, hiện có gần 50% số doanh nghiệp nước ngoài có nguy cơ chấm dứt hợp đồng hay giải thể vì giấy phép kinh doanh hết hạn. Trong tình trạng khó khăn của sản xuất, kinh doanh làm cho họ đắn đo suy nghĩ có nên tiếp tục đăng ký hoạt động lại hay không. Các nhà đầu tư mới cũng có đến nhiều nhưng chủ yếu là thăm dò, quan sát hơn là đưa vốn đầu tư vào hoạt động. Mấy năm gần đây, vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta giảm sút mạnh, từ 64 tỉ USD năm 2008, xuống chỉ còn 18 tỉ USD năm 2010 và 15 tỉ USD năm 2011. Hiện nay, chưa có dòng vốn mới nào vào vì nhà đầu tư đang cân nhắc trước khi quyết định.

Các dấu hiệu trên cho thấy, kinh tế vẫn đang tiếp tục khó khăn, chiều hướng tăng trưởng chưa thể hiện rõ, nguy cơ tụt hậu, giảm phát vẫn đang rình rập.

Cần cụ thể hóa chính sách hỗ trợ

Trong tình hình kinh tế khó khăn hiện nay, doanh nghiệp cũng nhận thấy sự chia sẻ khó khăn của Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan thông qua các giải pháp hỗ trợ. Đa số doanh nghiệp thừa nhận thái độ phục vụ của cán bộ công quyền tốt hơn, chất lượng các quy định pháp lý, chính sách, thủ tục hành chính tốt hơn, nhiều chính sách thể hiện hiệu quả trên thực tế.

Tuy nhiên, theo bà Đoàn Thị Quyên - Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, đa số doanh nghiệp cho rằng các biện pháp hỗ trợ Nhà nước đề ra cần cụ thể và sát với thực tế hơn. Cụ thể như, chính sách gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng được doanh nghiệp đánh giá rất cao về tính hiệu quả vì nó sát với quyền lợi của doanh nghiệp.

Khảo sát của VCCI cho thấy, có đến 40% doanh nghiệp đánh giá các biện pháp trên đem hiệu quả cao và chỉ có 13,6% cho rằng hiệu quả thấp. Các chính sách hoàn thuế bảo vệ môi trường, giảm 50% tiền thuế đất năm 2013, giải pháp về vốn tín dụng cũng nhận được sự đánh giá cao từ phía doanh nghiệp.

Doanh nghiệp đánh giá cao hiệu quả thực thi chính sách miễn, giảm thuế của Chính phủ

Trong khi đó, chỉ có 15% doanh nghiệp cho rằng giải pháp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu theo Nghị quyết 02 của Chính phủ là có hiệu quả. Phần lớn doanh nghiệp cho rằng, giải pháp này còn chung chung, chưa cụ thể nên hiệu quả không rõ rệt.

TSKH Trần Quang Thắng nhận định: Đã đến lúc cần phải cụ thể hóa, làm rõ nét hơn mối tương tác giữa Nhà nước, ngân hàng và doanh nghiệp “Nhà nước và ngân hàng cần doanh nghiệp hỗ trợ những gì và doanh nghiệp thật sự cần Nhà nước và ngân hàng hỗ trợ những gì” để kinh tế đất nước có thể phục hồi trong thời gian sớm nhất.

Các doanh nghiệp cũng kiến nghị, tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm và phát triển thị trường để giải quyết nhanh hàng tồn kho; ngân hàng tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay phù hợp với tình hình lạm phát, đơn giản hóa thủ tục vay vốn; tiếp tục triển khai mạnh mẽ các giải pháp đưa ra tại Nghị quyết 01, 02 của Chính phủ; hỗ trợ doanh nghiệp phát triển khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.

Mai Phương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,500 ▲1700K 121,000 ▲1700K
AVPL/SJC HCM 118,500 ▲1700K 121,000 ▲1700K
AVPL/SJC ĐN 118,500 ▲1700K 121,000 ▲1700K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,970 ▲100K 11,250 ▲100K
Nguyên liệu 999 - HN 10,960 ▲100K 11,240 ▲100K
Cập nhật: 21/05/2025 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 ▲1000K 115.000 ▲1000K
TPHCM - SJC 118.500 ▲1700K 121.000 ▲1700K
Hà Nội - PNJ 112.000 ▲1000K 115.000 ▲1000K
Hà Nội - SJC 118.500 ▲1700K 121.000 ▲1700K
Đà Nẵng - PNJ 112.000 ▲1000K 115.000 ▲1000K
Đà Nẵng - SJC 118.500 ▲1700K 121.000 ▲1700K
Miền Tây - PNJ 112.000 ▲1000K 115.000 ▲1000K
Miền Tây - SJC 118.500 ▲1700K 121.000 ▲1700K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 ▲1000K 115.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1700K 121.000 ▲1700K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1700K 121.000 ▲1700K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 ▲1000K 115.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 ▲1000K 115.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.000 ▲1000K 114.500 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.890 ▲1000K 114.390 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.180 ▲990K 113.680 ▲990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.960 ▲990K 113.460 ▲990K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.530 ▲750K 86.030 ▲750K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.630 ▲580K 67.130 ▲580K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.280 ▲410K 47.780 ▲410K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.480 ▲910K 104.980 ▲910K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.500 ▲610K 70.000 ▲610K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.080 ▲650K 74.580 ▲650K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.510 ▲680K 78.010 ▲680K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.590 ▲380K 43.090 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.440 ▲330K 37.940 ▲330K
Cập nhật: 21/05/2025 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,040 ▲100K 11,490 ▲100K
Trang sức 99.9 11,030 ▲100K 11,480 ▲100K
NL 99.99 10,600 ▲100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,600 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,250 ▲100K 11,550 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,250 ▲100K 11,550 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,250 ▲100K 11,550 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 11,850 ▲170K 12,100 ▲170K
Miếng SJC Nghệ An 11,850 ▲170K 12,100 ▲170K
Miếng SJC Hà Nội 11,850 ▲170K 12,100 ▲170K
Cập nhật: 21/05/2025 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16186 16453 17034
CAD 18162 18438 19059
CHF 30850 31227 31877
CNY 0 3358 3600
EUR 28802 29070 30101
GBP 34013 34403 35336
HKD 0 3185 3388
JPY 173 177 183
KRW 0 17 19
NZD 0 15081 15671
SGD 19575 19856 20383
THB 707 770 824
USD (1,2) 25704 0 0
USD (5,10,20) 25743 0 0
USD (50,100) 25771 25805 26150
Cập nhật: 21/05/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,780 25,780 26,140
USD(1-2-5) 24,749 - -
USD(10-20) 24,749 - -
GBP 34,366 34,459 35,381
HKD 3,256 3,266 3,365
CHF 31,003 31,099 31,969
JPY 176.72 177.04 184.94
THB 756.02 765.35 818.88
AUD 16,499 16,559 17,004
CAD 18,438 18,497 18,999
SGD 19,769 19,831 20,448
SEK - 2,657 2,750
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,875 4,008
NOK - 2,501 2,588
CNY - 3,565 3,661
RUB - - -
NZD 15,071 15,211 15,656
KRW 17.37 - 19.46
EUR 28,940 28,963 30,196
TWD 777.38 - 941.17
MYR 5,684.74 - 6,412.89
SAR - 6,804.97 7,162.76
KWD - 82,335 87,546
XAU - - -
Cập nhật: 21/05/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,770 25,780 26,120
EUR 28,724 28,839 29,945
GBP 34,167 34,304 35,279
HKD 3,250 3,263 3,368
CHF 30,832 30,956 31,877
JPY 175.67 176.38 183.74
AUD 16,375 16,441 16,971
SGD 19,716 19,795 20,337
THB 770 773 807
CAD 18,332 18,406 18,919
NZD 15,155 15,663
KRW 17.86 19.70
Cập nhật: 21/05/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25790 25790 26150
AUD 16364 16464 17032
CAD 18344 18444 18998
CHF 31067 31097 31986
CNY 0 3569.2 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29069 29169 29944
GBP 34315 34365 35473
HKD 0 3270 0
JPY 176.83 177.83 184.35
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15187 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19736 19866 20594
THB 0 736.3 0
TWD 0 850 0
XAU 11850000 11850000 12100000
XBJ 10000000 10000000 12100000
Cập nhật: 21/05/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,790 25,840 26,160
USD20 25,790 25,840 26,160
USD1 25,790 25,840 26,160
AUD 16,408 16,558 17,625
EUR 29,074 29,224 30,390
CAD 18,280 18,380 19,692
SGD 19,801 19,951 20,421
JPY 177.07 178.57 184.2
GBP 34,376 34,526 35,308
XAU 11,848,000 0 12,102,000
CNY 0 3,452 0
THB 0 772 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 21/05/2025 21:00