Ai bảo EVN "lười"?

08:47 | 19/03/2013

946 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Trách nhiệm và hiệu quả là điều mà dư luận xã hội đã đặt ra cho các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nói riêng suốt thời gian qua. Điều này tiếp tục “nóng” lên khi EVN có báo cáo chính thức về sản lượng điện sản xuất tháng 2/2013 và cũng đã có một số ý kiến cho rằng, sản lượng điện tháng 2/2013 của EVN giảm là do đơn vị này “lười” sản xuất…!

Thật là những nhận xét thiếu hiểu biết!

Từ xưa tới nay, ai cũng biết một thực tế là vào mùa xuân và đầu hè, tình trạng khô hạn, nắng nóng xảy ra suốt một dải từ Đà Nẵng vào đến Cà Mau. Nhu cầu về điện năng cao do người dân sử dụng nhiều nhưng ngành điện thì lại gặp khó khăn vì vừa phải đảm bảo đủ điện, vừa lo cấp nước… chống hạn.

Trong tháng 2, sản lượng điện sản xuất và mua của EVN ước đạt 8,142 tỉ kWh, trong đó điện sản xuất chiếm 36,2%. Tính chung trong tháng 1 và 2 thì sản lượng điện sản xuất và mua của EVN ước đạt 18,27 tỉ kWh, tăng 9,48% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó điện sản xuất chiếm 37,2%.

Thực tế là EVN đã cung cấp điện ổn định, an toàn trong cả nước, đáp ứng nhu cầu điện cho các hoạt động kinh tế và văn hoá xã hội trong dịp tết Nguyên đán. Đặc biệt, EVN đã kết hợp vận hành các nhà máy thuỷ điện lớn ở miền Bắc vừa phát điện vừa đảm bảo cung cấp đủ nước phục vụ gieo cấy vụ Đông Xuân 2012-2013 ở các tỉnh, thành phố đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

 

Cũng trong 2 tháng đầu năm, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trong tháng 1 và 2/2013, EVN đã phối hợp với Tổng cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) điều hành tăng khai thác các hồ thủy điện Hoà Bình, Thác Bà, Tuyên Quang để thực hiện 3 đợt xả nước từ các hồ này với tổng lượng nước xả lên tới 4,7 tỉ m3, đáp ứng đủ nhu cầu tưới tiêu cho vụ Đông - xuân. Và sau 3 đợt xả, về cơ bản, các địa phương đã lấy đủ nước, diện tích đất có nước đạt 99,5%.

Tuy nhiên, điều này cũng đã khiến mực nước trung bình của các hồ thủy điện giảm sâu như hồ thủy điện Hòa Bình giảm 14,38m, hồ Thác Bà giảm 2,94m, hồ Tuyên Quang giảm 12,65m… và ảnh hưởng đến sản lượng điện sản xuất của EVN.

Nói như vậy để thấy rằng, trong tháng 2/2013, bên cạnh việc hoàn thành nhiệm vụ đáp ứng điện cho nền kinh tế, EVN đã tham gia và giữ vai trò nòng cốt trong việc cung cấp nước tưới tiêu phục vụ cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp vụ Đông - Xuân 2013.

Có một thực tế, trong cơ cấu nguồn cung điện năng ở nước ta, do tính chất đặc thu, thủy điện vẫn chiếm một tỉ trọng lớn, chiếm khoảng 25% tổng sản lượng điện cung cấp. Theo kế hoạch cung ứng điện của EVN thì, trong năm 2013 sẽ cung cấp khoảng 130 tỉ kWh và riêng thủy điện đóng góp tới 33,4 tỉ kWh.

Qua đó để thấy rằng, việc tăng giảm sản lượng điện do EVN sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của các nhà máy thủy điện. Và vì là thủy điện nên tất cả phụ thuộc vào… giời!

Một điểm đáng lưu ý nữa, hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế nhưng hệ thống các hồ chứa, hệ thống thủy lợi lại rất hạn chế. Cả nước có hàng chục nghìn công trình thủy lợi các loại nhưng do xây dựng đã lâu, nhiều công trình xuống cấp nghiêm trọng, thậm chí có nơi hệ thống công trình thủy lợi vừa thiếu, lại yếu về năng lực không đáp ứng được nhu cầu tưới tiêu. Vì phải dành đến gần 5 tỉ m3 nước cho nông nghiệp nên sản lượng điện của EVN bị ảnh hưởng. Và điều này không phải ai cũng biết. Và vì không hiểu biết, không có thông tin, lại nhìn ngành điện bằng con mắt “lé” nên đã có không ít ý kiến cho là ngành điện “lười” sản xuất!

Dưới góc độ kinh tế, bình luận EVN “lười” xem ra cũng chẳng thể chấp nhận được bởi chẳng có doanh nghiệp nào đi mua hàng giá cao và bán giá với mức giá không đổi cả. Trường hợp của EVN chỉ là “cực chẳng đã” bởi sản lượng điện thực tế bị sụt giảm mang tính chất khách quan còn EVN chấp nhận phần thiệt về mình để đảm bảo lợi ích chung của nền kinh tế là điều đáng phải được ghi nhận!

Qua đó để khẳng định rằng, khi nói đến vấn đề trách nhiệm và hiệu quả, chúng ta cần phải nắm rõ được bản chất của vấn đề. Vậy nên, nói EVN “lười” là không đúng bản chất!

Trao đổi với Báo Năng lượng Mới, đại diện của EVN cho biết: Mục tiêu vận hành hệ thống điện tháng 3/2013 của EVN là khai thác tối đa các nguồn nhiệt điện than và turbine khí, các nguồn thủy điện khai thác theo kế hoạch điều tiết nước cho mùa khô. Các công ty điện lực đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định. Bên cạnh đó, EVN sẽ phối hợp chặt chẽ với Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tổng Công ty Khí Việt Nam, các công ty phát điện thành viên của TKV, PVN và các đơn vị phát điện khác đảm bảo nguồn phát cho hệ thống điện.

Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền tiết kiệm điện trên các phương tiện thông tin đại chúng để cộng đồng xã hội nâng cao ý thức tiết kiệm điện và phối hợp với Sở Công Thương các tỉnh, thành phố đẩy mạnh việc thực hiện các biện pháp tiết kiệm điện theo Chỉ thị số 171/CT-TTg ngày 26/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời triển khai tích cực các hoạt động hưởng ứng chiến dịch Giờ Trái đất 2013 tại Việt Nam.

Những ai muốn phê phán ngành điện thì việc nên làm trước tiên khi nói là… nên tắt bớt một bóng đèn điện trong nhà mình đi.

 

Thanh Ngọc

(Báo Năng lượng Mới số 205, ra ngày 19/3/2013)

 

 

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 113,000 115,500
AVPL/SJC HCM 113,000 115,500
AVPL/SJC ĐN 113,000 115,500
Nguyên liệu 9999 - HN 11,030 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 11,020 11,250
Cập nhật: 17/04/2025 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 110.500 113.600
TPHCM - SJC 113.000 115.500
Hà Nội - PNJ 110.500 113.600
Hà Nội - SJC 113.000 115.500
Đà Nẵng - PNJ 110.500 113.600
Đà Nẵng - SJC 113.000 115.500
Miền Tây - PNJ 110.500 113.600
Miền Tây - SJC 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 110.500 113.600
Giá vàng nữ trang - SJC 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 110.500
Giá vàng nữ trang - SJC 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 110.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 110.500 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 110.500 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 113.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 112.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 112.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 111.970
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 82.400 84.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 63.760 66.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 44.660 47.160
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 103.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 66.580 69.080
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 71.100 73.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 74.490 76.990
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 40.030 42.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 34.940 37.440
Cập nhật: 17/04/2025 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,820 11,340
Trang sức 99.9 10,810 11,330
NL 99.99 10,820
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,300 11,550
Miếng SJC Nghệ An 11,300 11,550
Miếng SJC Hà Nội 11,300 11,550
Cập nhật: 17/04/2025 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 15941 16207 16788
CAD 18048 18323 18943
CHF 30970 31347 31998
CNY 0 3358 3600
EUR 28733 29001 30034
GBP 33494 33881 34824
HKD 0 3200 3402
JPY 174 178 184
KRW 0 0 18
NZD 0 14968 15559
SGD 19127 19406 19932
THB 693 756 810
USD (1,2) 25581 0 0
USD (5,10,20) 25619 0 0
USD (50,100) 25646 25680 26035
Cập nhật: 17/04/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,660 25,660 26,020
USD(1-2-5) 24,634 - -
USD(10-20) 24,634 - -
GBP 33,836 33,927 34,840
HKD 3,271 3,281 3,381
CHF 31,066 31,162 32,021
JPY 177.26 177.58 185.51
THB 740.52 749.66 802.13
AUD 16,236 16,295 16,737
CAD 18,322 18,381 18,875
SGD 19,322 19,383 20,000
SEK - 2,589 2,680
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,860 3,994
NOK - 2,391 2,479
CNY - 3,495 3,590
RUB - - -
NZD 14,966 15,105 15,547
KRW 16.87 - 18.9
EUR 28,864 28,887 30,119
TWD 718.68 - 870.1
MYR 5,471.25 - 6,170.82
SAR - 6,770.4 7,126.84
KWD - 82,006 87,201
XAU - - 109,800
Cập nhật: 17/04/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,670 25,690 26,030
EUR 28,770 28,886 29,971
GBP 33,685 33,820 34,788
HKD 3,268 3,281 3,387
CHF 31,119 31,244 32,158
JPY 177.07 177.78 185.20
AUD 16,091 16,156 16,683
SGD 19,319 19,397 19,924
THB 755 758 792
CAD 18,226 18,299 18,809
NZD 15,041 15,548
KRW 17.32 19.09
Cập nhật: 17/04/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25660 25660 26020
AUD 16107 16207 16773
CAD 18221 18321 18875
CHF 31197 31227 32116
CNY 0 3501.3 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 28899 28999 29872
GBP 33777 33827 34937
HKD 0 3320 0
JPY 177.86 178.36 184.91
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15074 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19275 19405 20134
THB 0 721.7 0
TWD 0 770 0
XAU 11300000 11300000 11550000
XBJ 9900000 9900000 11800000
Cập nhật: 17/04/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,670 25,720 25,990
USD20 25,670 25,720 25,990
USD1 25,670 25,720 25,990
AUD 16,098 16,248 17,321
EUR 29,103 29,253 30,426
CAD 18,154 18,254 19,571
SGD 19,362 19,512 19,992
JPY 178.7 180.2 184.82
GBP 33,903 34,053 34,885
XAU 11,138,000 0 11,392,000
CNY 0 3,378 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 17/04/2025 02:00