Áp hạn mức tăng trưởng tín dụng, liệu chất và lượng có tốt hơn?

11:00 | 16/04/2013

931 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Với mục tiêu kiểm soát chất lượng tín dụng, năm nay Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiếp tục phân nhóm các tổ chức tín dụng (TCTD) để giao tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trong năm 2013. Số liệu cụ thể cơ bản đã được thông báo cho từng TCTD và nhìn chung, tốc độ tăng trưởng đang được kiểm soát chặt hơn so với kỳ trước.

Giao chỉ tiêu dựa trên “sức khỏe” của các TCTD

Việc giao chỉ tiêu tín dụng có lẽ không gây bất ngờ cho các nhà băng, bởi lẽ NHNN đã đánh tiếng về việc giao chỉ tiêu này từ Chỉ thị số 01/CT-NHNN của NHNN ban hành ngày 31/1/2013 trong đó nêu rõ, năm 2013, cơ quan quản lý sẽ thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các TCTD phù hợp với quy mô, chất lượng tín dụng, khả năng quản lý thanh khoản, khả năng quản trị điều hành của tổ chức đó.

Tuy nhiên, khác với sự “ồn ào” của việc phân loại, đánh giá các TCTD trước khi giao chỉ tiêu tăng trưởng vào năm 2012 thì năm nay, việc này có vẻ “im lặng” hơn nhiều. Điều này có thể lý giải do năm 2012, NHNN chưa có cái nhìn, đánh giá đầy đủ về “sức khỏe” của các TCTD, do vậy, lần đầu xếp loại, đánh giá các TCTD một cách công khai đã gặp phải nhiều ý kiến khác nhau. Còn năm nay, quá trình tái cơ cấu các TCTD đã diễn ra mạnh mẽ được hơn 1 năm, về cơ bản “sức khỏe” của các TCTD đã được NHNN nhìn nhận, đánh giá một cách sát thực hơn trong cả một thời gian dài, vì vậy, khi phân nhóm xếp loại để giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng sẽ gặp nhiều thuận lợi cũng như sự đồng thuận từ phía các TCTD.

Chất lượng tín dụng là mục tiêu hàng đầu trong việc giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho ngân hàng (ảnh: Mạnh Thắng)

Theo thông báo từ các ngân hàng thuộc nhóm cao nhất (12-13%) thì tăng trưởng tín dụng năm nay được giao là khá thấp so với năm trước là 17%, trong bối cảnh nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, tín dụng chưa thể tăng trưởng mạnh do nút thắt trong cơ chế cấp tín dụng cho các doanh nghiệp là lãi suất vẫn chưa được tháo gỡ. Ngoài ra, việc chậm giải quyết nợ xấu sẽ gây trở ngại lớn cho việc tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp. Do vậy, nhìn chung mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 12% vẫn đối mặt với thách thức lớn.

Tuy vậy, việc giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay cũng có một số bất ngờ khi những ngân hàng hiện đang có tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2012 khá cao như Sacombank 19,6%, Vietcombank 15,16%, MB Bank 25,4%… cũng chỉ được giao tăng trưởng 12% trong năm nay. Chỉ cá biệt trường hợp của Vietinbank mặc dù chỉ tăng trưởng 13,6% trong năm 2012, tuy nhiên, theo thông tin từ ngân hàng này cho biết, mặc dù đã “xin” NHNN được tăng trưởng với tốc độ 15-20% nhưng rốt cuộc vẫn được giao chỉ tiêu tăng tín dụng nhích hơn một chút là 13%, so với “trần” 12% của các ngân hàng khác.

Ngoài nhóm cao nhất với tốc độ tăng trưởng 12%, các ngân hàng còn lại được xếp vào nhóm 2 với tốc độ tăng trưởng tín dụng tối đa là 10%. Các ngân hàng yếu có thể chỉ được tăng trưởng tín dụng thấp hoặc không được tăng trưởng. Tuy nhiên, hiện những ngân hàng nào nằm trong nhóm cuối bảng này vẫn chưa được công khai.

Chất lượng và chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng có được kiểm soát?

Mặc dù chất lượng tín dụng là mục tiêu hàng đầu trong việc giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng như phát biểu của một đại diện của NHNN, tuy nhiên những khó khăn đang gặp phải trong hệ thống ngân hàng khiến cho nỗi lo cả về chất và lượng của việc tăng trưởng này khó có thể đạt được.

Trong bối cảnh lãi suất cho vay còn quá cao, nằm ngoài khả năng của các doanh nghiệp, do vậy, mặc dù có nhu cầu nhưng doanh nghiệp không thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng. Thêm nữa, giả sử lãi suất cho vay có được giảm về mức thấp 10% sau khi lãi suất huy động giảm về 7,5% thì với dư nợ cũ khá cao 15-17%, doanh nghiệp cũng không thể xoay đâu ra vốn để “đảo nợ” cũ, chưa nói là vay mới.

Một nguyên nhân khác có thể khiến tốc độ tín dụng chạy chậm lại là do sức khỏe các doanh nghiệp quá yếu trong khi sức cầu yếu, hàng không tiêu thụ được, tồn kho lớn… do vậy doanh nghiệp không dám vay vốn để mở rộng sản xuất.

Ông Nguyễn Thanh Toại, Phó tổng giám đốc ACB từng chia sẻ: “Từ cuối năm 2012, tôi đã khẳng định với báo chí là lãi suất cứ cao thế này thì khó cho vay lắm”. Hệ quả tất yếu là tăng trưởng dư nợ trong quý I của nhiều ngân hàng âm và dư nợ cả hệ thống quý I/2013 chỉ đạt 0,1%, thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu tăng trưởng tín dụng 12% mà NHNN đặt ra trong năm 2013.

Đánh giá về khả năng đạt được mục tiêu tăng trưởng 12% trong năm 2013, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cũng nhận định, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế quá yếu là nguyên nhân chính khiến tín dụng chảy chậm. Cơ quan này cũng cho rằng, tăng trưởng tín dụng năm nay khó đạt mục tiêu đề ra là 12%.

Bên cạnh tăng trưởng về lượng, việc kiểm soát chất lượng tín dụng vẫn được xem là khó khăn và phụ thuộc hoàn toàn từ phía các ngân hàng. Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, phá sản khiến nguồn khách hàng tốt tìm đến ngân hàng vay vốn ngày càng ít đi. Vì mảng tín dụng thường chiếm 40-70% trong cơ cấu doanh thu của mỗi ngân hàng, do vậy, bắt buộc cho vay ra để duy trì mức doanh thu và lợi nhuận kỳ vọng có thể khiến nhiều ngân hàng tự ý giảm điều kiện cấp tín dụng của mình, sẵn sàng chấp nhận nhiều khách hàng và tài sản bảo đảm chưa đạt chuẩn, do vậy, rủi ro tái phát sinh nợ xấu cao.

Trước đó, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình từng khẳng định, ngành ngân hàng sẽ nỗ lực đưa lãi suất cho vay xuống 9-10%/năm, lãi suất các khoản vay cũ cũng sẽ hạ xuống còn 13%/năm. Tuy nhiên, đến nay các doanh nghiệp vẫn đang “thoi thóp” chờ đợi chứ chưa được hưởng lãi suất thấp trên thực tế.

Ngoài ra, Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) nhiều khả năng sẽ được Chính phủ thành lập vào giữa năm 2013. VAMC dự kiến sẽ mua lại nợ xấu ngân hàng bằng 100% giá trị sổ sách và đưa nợ xấu ngân hàng ra khỏi bảng cân đối tài sản, giúp tài sức khỏe các ngân hàng “lành mạnh” trở lại để có “cửa” tăng trưởng tín dụng. Đồng thời, chính sách tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và “giải cứu” thị trường bất động sản phát huy tác dụng sẽ tác động tích cực đến nhu cầu tín dụng từ phía các doanh nghiệp, giúp ngân hàng mạnh tay tăng trưởng tín dụng, đồng thời có được các doanh nghiệp tốt để cho vay.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, hiện thời gian không còn nhiều và NHNN còn cần phải thực hiện nhiều hơn nữa các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và giảm lãi suất cho vay trên thực tế để thúc đẩy chất lượng và tăng trưởng tín dụng trong các quý tiếp theo nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng 12% trong năm 2013.

Thành Trung

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 74,400 75,600
Nguyên liệu 999 - HN 74,300 75,500
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 82.100 84.100
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 82.100 84.100
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 82.100 84.100
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,435 7,650
Trang sức 99.9 7,425 7,640
NL 99.99 7,430
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,410
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,500 7,680
Miếng SJC Thái Bình 8,210 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,210 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,210 8,400
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,100 84,100
SJC 5c 82,100 84,120
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,100 84,130
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,700 76,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,700 76,700
Nữ Trang 99.99% 74,600 75,900
Nữ Trang 99% 73,149 75,149
Nữ Trang 68% 49,267 51,767
Nữ Trang 41.7% 29,303 31,803
Cập nhật: 19/04/2024 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,802.74 15,962.37 16,474.59
CAD 17,830.93 18,011.04 18,589.00
CHF 27,037.08 27,310.18 28,186.55
CNY 3,419.83 3,454.37 3,565.76
DKK - 3,534.07 3,669.44
EUR 26,168.83 26,433.16 27,603.92
GBP 30,667.37 30,977.14 31,971.18
HKD 3,144.63 3,176.39 3,278.32
INR - 301.14 313.19
JPY 158.53 160.13 167.79
KRW 15.77 17.53 19.12
KWD - 81,790.33 85,060.87
MYR - 5,219.21 5,333.08
NOK - 2,258.10 2,353.99
RUB - 254.56 281.80
SAR - 6,718.10 6,986.74
SEK - 2,263.43 2,359.55
SGD 18,067.70 18,250.20 18,835.84
THB 606.11 673.46 699.26
USD 25,100.00 25,130.00 25,440.00
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,005 16,025 16,625
CAD 18,145 18,155 18,855
CHF 27,364 27,384 28,334
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,538 3,708
EUR #26,211 26,421 27,711
GBP 31,064 31,074 32,244
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.22 160.37 169.92
KRW 16.21 16.41 20.21
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,220 2,340
NZD 14,747 14,757 15,337
SEK - 2,244 2,379
SGD 18,103 18,113 18,913
THB 637.8 677.8 705.8
USD #25,145 25,145 25,440
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,100.00 25,120.00 25,440.00
EUR 26,325.00 26,431.00 27,607.00
GBP 30,757.00 30,943.00 31,897.00
HKD 3,164.00 3,177.00 3,280.00
CHF 27,183.00 27,292.00 28,129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15,911.00 15,975.00 16,463.00
SGD 18,186.00 18,259.00 18,792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17,956.00 18,028.00 18,551.00
NZD 14,666.00 15,158.00
KRW 17.43 19.02
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25225 25275 25442
AUD 16138 16188 16591
CAD 18211 18261 18666
CHF 27736 27786 28199
CNY 0 3479.7 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26808 26858 27368
GBP 31508 31558 32018
HKD 0 3115 0
JPY 162.51 163.01 167.54
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0372 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14819 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18515 18515 18872
THB 0 651.3 0
TWD 0 777 0
XAU 8220000 8220000 8390000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 01:02