Chi tiêu gia đình trong suy thoái kinh tế

06:19 | 26/10/2013

1,735 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Vay tín dụng dễ dàng để tiêu dùng và thói quen tậu nhà cửa của người châu Á trong khi giá bất động sản tăng vọt đã khiến tỷ lệ nợ của các hộ gia đình tại 4 nước châu Á là Malaysia, Hàn Quốc, Singapore và Thái Lan đã lên đến đỉnh điểm và đưa các nước này vào một vòng xoáy nguy hiểm tiềm tàng cho nền kinh tế.

Châu Á đang “vung tay quá trán”

Theo nghiên cứu mới về người tiêu dùng châu Á của Coface - một trong những tổ chức bảo hiểm tín dụng dẫn đầu toàn cầu với thị phần 25%, tỷ lệ vay nợ của người Malaysia là cao nhất, tương đương 196% so với thu nhập hằng năm của mình, cao hơn cả Hàn Quốc (166%). Vào năm 2003, tỷ lệ này tại Malaysia chỉ ở mức 125%.

Trong khi đó, có thể nói, tại Hàn Quốc, các hộ gia đình nghèo nhất cũng chính là các hộ có nguy cơ nợ nần chồng chất nặng nhất. Theo đó, nợ của các hộ gia đình của 20% những người nghèo nhất đạt đến 184% tổng thu nhập khả dụng của họ vào năm 2012, tức là cao hơn 18 điểm so với mức trung bình của quốc gia.

Tại Singapore, các hộ gia đình chịu tác động gián tiếp của việc giá cả bất động sản tăng vọt. Tại quốc đảo nhỏ bé này, hơn 80% người dân làm chủ bất động sản. Số người vay tín dụng để mua nhà đất đã tăng lên 78% từ năm 2008 đến 2012. Còn ở Thái Lan, tỷ lệ nợ cũng đã lên tới con số 112%, rất cao.

Vay tín dụng tậu nhà khiến nhiều hộ gia đình châu Á nợ nần chồng chất

Thời gian gần đây, do kinh tế sa sút, các gia đình giảm chi tiêu, đặc biệt là hạn chế mua bất động sản. Tuy nhiên, điều này lại tác động lên giá cả bất động sản, khiến thị trường này “vỡ bong bóng”, làm cho các hộ gia đình không có khả năng trả nợ hoặc kéo dài thời gian trả nợ. Do vậy, “nợ hộ gia đình quá mức ở một số nước có thể khiến các nước này phải cân nhắc về các hoạt động trong trung hạn”, Coface nhận định.

Trước đó, một báo cáo của Ngân hàng Standard Chartered công bố hồi tháng 7/2013 cho thấy, các hộ gia đình tại Singapore thuộc loại nợ nhiều nhất tại châu Á so với mức thu nhập họ kiếm được. Theo đó, trong năm 2012, người Singapore vay nợ tương đương 151% so với thu nhập hằng năm của mình. Đây là tỷ lệ cao thứ hai trong khu vực, sau Malaysia, với tỷ lệ là 182%. Trong giai đoạn 2000-2012, riêng nợ mua nhà ở Singapore tăng bình quân hằng năm là 12,1%. Tuy nhiên, tỷ lệ này từ năm 2006 đến 2012 là 15,8%. Mặc dù việc trả lãi vay của các hộ gia đình Singapore ở mức thấp nhất khu vực (do lãi suất ngân hàng thấp), nhưng Standard Chartered cũng cảnh báo rằng, một khi lãi suất tăng, các khoản nợ sẽ trở nên khó khăn đối với nhiều chủ hộ gia đình, dù gánh nặng nợ nần hiện tại là vẫn có thể xử lý được.

Sẽ lặp lại khủng hoảng tài chính châu Á?

Theo Coface, 4 nước Malaysia, Hàn Quốc, Singapore và Thái Lan có nguy cơ rơi vào tình trạng giống như Mỹ vào năm 2008, thời điểm mà tỷ lệ nợ trung bình của các hộ gia đình Mỹ lên tới 130%. Khi đó, nhiều hộ gia đình ở Mỹ đã không thể trả các khoản vay thế chấp mua nhà. Mặc dù các khoản nợ này không quá lớn, nhưng tác động của chúng không hề nhỏ. Một số ngân hàng đầu tư không chịu đựng nổi, do họ đã cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách hàng. Giá nhà đất sụt giảm mạnh, thị trường nhà đất đóng băng. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm, kéo sụp hàng loạt các tổ chức tài chính khổng lồ.

Sự hoảng loạn bao trùm thị trường tài chính toàn cầu khiến thanh khoản thị trường tê liệt và giá các loại tài sản tài chính lao dốc, đẩy các định chế tài chính chìm sâu hơn vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ “hàng trăm năm mới có một lần”. Riêng tại Mỹ, theo phân tích của Công ty Nghiên cứu và Tư vấn bán lẻ Envirosell, sau khủng hoảng có đến 1/3 người Mỹ bị rơi xuống đẳng cấp xã hội thấp hơn. Người rất giàu trở nên ít giàu hơn, người trung lưu cấp cao tuột xuống trung lưu và người trung lưu mới rơi trở lại tầng lớp lao động.

Do đó, vấn đề nợ hộ gia đình quả thực rất đáng lo. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là 4 nước Malaysia, Hàn Quốc, Singapore và Thái Lan đang trên bờ vực của một cuộc khủng hoảng tương tự, nhất là khi những nền kinh tế mới nổi khác của châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Philippines đều “không ngồi cùng một thuyền với họ” - có tỷ lệ nợ rất thấp, dưới 35% trong năm 2012.

Mặc dù vậy, trong thời gian tới, 4 nước trên cần thực hiện một số biện pháp điều chỉnh, bao gồm cả việc giảm chi tiêu. Ngoài ra, chính quyền cần siết chặt chính sách tiền tệ cũng như luật lệ trong ngành bất động sản.

Trong những tháng gần đây, Cơ quan Quản lý Tiền tệ Singapore (MAS) đã tung ra các biện pháp mới nhằm hạn chế nợ tiêu dùng. Gần đây nhất, vào cuối tháng 6 vừa qua, MAS ban hành khung pháp lý mới, yêu cầu các định chế tài chính xem xét đến các nghĩa vụ nợ khác khi cấp một khoản vay bất động sản. Phần trả nợ hằng tháng của người mua bất động sản cũng không được vượt quá 60% thu nhập của họ. Quy định mới được áp dụng cho các khoản vay mua nhà và sẽ được áp dụng mở rộng cho các loại vay khác, bao gồm vay mua xe và vay nợ của sinh viên.

Càng giàu càng phải học tiết kiệm

Trong khi đó, một bản phân tích của Hãng tin AP (Mỹ) về chi tiêu của các hộ gia đình ở 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Đức, Pháp, Mỹ, Anh, Brazil, Nga và Ấn Độ - chiếm một nửa dân số thế giới và 65% GDP toàn cầu cho thấy, các gia đình chi tiêu cẩn trọng hơn và rút hàng trăm tỉ USD ra khỏi sàn chứng khoán, cắt giảm vay mượn lần đầu tiên trong hàng thập niên, đồng thời đổ tiền vào các khoản tiết kiệm.

Trong 5 năm trước khủng hoảng, nợ của các hộ gia đình ở 10 nền kinh tế lớn nhất tăng tới 34%. Khi giai đoạn khủng hoảng tài chính lên đến cao trào, mọi người bắt đầu phanh tốc độ vay nợ. Tỷ lệ nợ/người lớn ở 10 nước kinh tế phát triển giảm 1% trong 4,5 năm sau năm 2007. Các nhà kinh tế học cho rằng tỷ lệ vay nợ chưa từng giảm xuống đồng loạt như vậy, kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

Để giảm nợ và tiết kiệm nhiều hơn, mọi người đã thắt chặt chi tiêu. Điều chỉnh chi tiêu vì lý do lạm phát, tốc độ chi tiêu của người tiêu dùng toàn cầu tăng 1,6% một năm trong 5 năm sau khủng hoảng. Mức này chỉ bằng một nửa tốc độ tăng trước thời kỳ khủng hoảng và cao hơn một chút so với tốc độ tăng dân số hằng năm trong giai đoạn này.

Khắp thế giới, dù ít hay nhiều, tại các nền kinh tế đang bành trướng và thu hẹp, người tiêu dùng trở nên tằn tiện. Có thể nhìn thấy điều đó ở xu hướng dùng đồ cũ như quần áo, xe hơi... nở rộ ở Mỹ, Anh… Xe hơi ở châu Âu xuống giá đến mức thấp nhất trong vòng hai thập niên. Dollar General, một chuỗi với khoảng 10.000 cửa hàng giảm giá ở Mỹ đã có số lời tăng ngoạn mục: gấp đôi trong vòng 3 năm qua.

Sau khi điều chỉnh lạm phát, người Mỹ tăng chi tiêu của họ trong 5 năm sau khủng hoảng lên bằng 1/4 so với trước khủng hoảng, theo Hãng kiểm toán hàng đầu thế giới PriceWaterhouseCoopers. 1% những hộ giàu nhất nước Mỹ đã tiết kiệm chi tiêu 30%, gấp ba lần hồi năm 2008, theo một báo cáo hồi tháng 7 của Hãng nghiên cứu American Express Publishing and Harrison Group. Chi tiêu của người Pháp chỉ hơi nhúc nhích. Ở Anh, chi tiêu đã không tăng chậm mà còn giảm. Người Anh tiêu dùng kém 3% so với năm ngoái.

Tuy nhiên, tránh xa nợ nần và chi tiêu ít hơn có thể tốt cho tài chính của một gia đình, nhưng khi hàng trăm triệu gia đình làm vậy thì nó có thể sẽ làm nền kinh tế toàn cầu bất ổn.

P.Linh (tổng hợp)

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,950 ▲100K 69,500 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 68,850 ▲100K 69,400 ▲50K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Cập nhật: 29/03/2024 22:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
TPHCM - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Hà Nội - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 69.200 ▲800K 70.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 51.250 ▲600K 52.650 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.700 ▲470K 41.100 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.870 ▲330K 29.270 ▲330K
Cập nhật: 29/03/2024 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,885 ▲50K 7,040 ▲50K
Trang sức 99.9 6,875 ▲50K 7,030 ▲50K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NL 99.99 6,880 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,880 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Nghệ An 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Hà Nội 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Cập nhật: 29/03/2024 22:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 69,200 ▲700K 70,450 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 69,200 ▲700K 70,550 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 69,100 ▲700K 69,950 ▲700K
Nữ Trang 99% 67,757 ▲693K 69,257 ▲693K
Nữ Trang 68% 45,721 ▲476K 47,721 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 27,322 ▲292K 29,322 ▲292K
Cập nhật: 29/03/2024 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,728.49 15,887.36 16,397.67
CAD 17,838.70 18,018.89 18,597.66
CHF 26,804.54 27,075.29 27,944.96
CNY 3,362.31 3,396.27 3,505.89
DKK - 3,514.56 3,649.29
EUR 26,020.03 26,282.86 27,447.78
GBP 30,490.41 30,798.39 31,787.64
HKD 3,088.58 3,119.77 3,219.98
INR - 296.75 308.63
JPY 158.93 160.54 168.22
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 80,424.52 83,642.95
MYR - 5,198.02 5,311.59
NOK - 2,236.06 2,331.08
RUB - 255.72 283.10
SAR - 6,594.46 6,858.36
SEK - 2,266.43 2,362.75
SGD 17,918.05 18,099.04 18,680.38
THB 601.86 668.73 694.37
USD 24,600.00 24,630.00 24,970.00
Cập nhật: 29/03/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,875 15,895 16,495
CAD 18,011 18,021 18,721
CHF 27,001 27,021 27,971
CNY - 3,367 3,507
DKK - 3,501 3,671
EUR #25,930 26,140 27,430
GBP 30,793 30,803 31,973
HKD 3,041 3,051 3,246
JPY 159.9 160.05 169.6
KRW 16.26 16.46 20.26
LAK - 0.68 1.38
NOK - 2,211 2,331
NZD 14,593 14,603 15,183
SEK - 2,248 2,383
SGD 17,848 17,858 18,658
THB 629.89 669.89 697.89
USD #24,563 24,603 25,023
Cập nhật: 29/03/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,620.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,213.00 26,318.00 27,483.00
GBP 30,653.00 30,838.00 31,788.00
HKD 3,106.00 3,118.00 3,219.00
CHF 26,966.00 27,074.00 27,917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15,849.00 15,913.00 16,399.00
SGD 18,033.00 18,105.00 18,641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,979.00 18,051.00 18,585.00
NZD 14,568.00 15,057.00
KRW 17.62 19.22
Cập nhật: 29/03/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24612 24662 25002
AUD 15963 16013 16415
CAD 18109 18159 18560
CHF 27305 27355 27767
CNY 0 3399.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26480 26530 27037
GBP 31120 31170 31630
HKD 0 3115 0
JPY 161.92 162.42 166.95
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0254 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14609 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18235 18235 18596
THB 0 642.4 0
TWD 0 777 0
XAU 7910000 7910000 8060000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 22:00