Xây dựng nghề cá bền vững trước biến động thị trường

09:54 | 06/04/2018

528 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
“Quá trình phấn đấu khắc phục những khuyến nghị của Liên minh Châu Âu (EC) không phải là các giải pháp mang tính chất đối phó. Việt Nam sẽ tiếp tục kiên trì nỗ lực để đảm bảo xây dựng một nghề cá bền vững trong tương lai”.
xay dung nghe ca ben vung truoc bien dong thi truong
Việt Nam đang xây dựng nghề cá theo hướng phát triển bền vững, có trách nhiệm và tuân thủ các quy định quốc tế. (Ảnh minh họa)

Đây là quan điểm của Thứ trưởng thường trực Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn về quá trình khắc phục “thẻ vàng” của EC với thủy sản Việt Nam.

Nỗ lực thực hiện các khuyến nghị

Ngày 23/10/2017, EC có thông báo áp dụng biện pháp cảnh báo bằng “thẻ vàng” đối với sản phẩm hải sản xuất khẩu (XK) của Việt Nam vào thị trường của này. Đồng thời, EC đưa ra 9 khuyến nghị Việt Nam cần phải thực hiện ngay trong 6 tháng (từ 23/10/2017 đến 23/4/2018).

Theo Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường, thời gian qua, Việt Nam đã tập trung triển khai một cách đồng bộ và quyết liệt các hành động theo 9 khuyến nghị của EC; từng bước chủ động trong việc xây dựng nghề cá theo hướng phát triển bền vững, một nghề cá có trách nhiệm và tuân thủ các quy định quốc tế.

Cụ thể, 5 tháng vừa qua, Việt Nam đã tập trung vào sửa đổi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là Luật Thuỷ sản 2017 đã được Quốc hội thông qua. Các nội dung về quy định quản lý nghề khai thác hải sản của quốc tế theo khuyến nghị của EC đã cơ bản được nội luật hoá trong Luật Thuỷ sản 2017. Trong khi Luật Thuỷ sản 2017 chưa có hiệu lực, Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN&PTNT, UBND các tỉnh đã ban hành Chỉ thị, Công điện, Kế hoạch hành động để triển khai ngay các nội dung khuyến nghị của EC.

“Chính phủ đã đồng ý thành lập tổ công tác liên ngành, trong đó giao Bộ trưởng Bộ NN&PTNT làm Tổ trưởng để chỉ đạo, đôn đốc các địa phương, các bên có liên quan thực hiện kế hoạch hành động quốc gia chống khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU). Các cơ quan chức năng đã tập trung vào việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý khai thác hải sản, DN, ngư dân... nhằm thay đổi nhận thức cũng như hành vi khai thác, mua bán và sử dụng hải sản khai thác IUU”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh.

Trên thực tế, trong thực hiện các khuyến nghị của EC, 5 tháng vừa qua, ngoài việc hoàn thiện khung pháp lý hướng tới quản lý nghề khai thác hải sản bền vững, điểm nổi bật có thể kể đến là cơ quan chức năng đã tăng cường việc giám sát tàu cá, tổ chức tuần tra, kiểm soát trên biển từng bước ngăn chặn, giảm thiểu và tiến tới loại bỏ khai thác IUU tại vùng biển nước ngoài.

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn cho hay: Sau khi Việt Nam triển khai quyết liệt các giải pháp, tình hình tàu cá và ngư dân vi phạm khai thác hải sản trái phép ở vùng biển nước ngoài đã giảm rõ rệt. Đặc biệt, đến thời điểm hiện tại, không còn tàu cá Việt Nam vi phạm ở khu vực các nước quốc đảo Thái Bình Dương. Hiện tại, chỉ còn các vụ việc tàu cá và ngư dân bị bắt giữ, xử lý tại vùng biển lịch sử chồng lấn, tranh chấp do chưa được phân định rõ ràng.

Xây dựng nghề cá bền vững

Trong quá trình khắc phục “thẻ vàng” của EC, việc đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng từ Trung ương đến địa phương, đến nay, người dân, cán bộ quản lý nghề cá đã nhận thức sâu sắc về chống khai thác IUU, ý thức chấp hành pháp luật của ngư dân được nâng cao.

Thứ trưởng Hà Công Tuấn nhấn mạnh: “Việt Nam hài lòng với những tiến bộ đạt được trong quá trình phấn đấu khắc phục những khuyến nghị của EC thời gian qua. Đây không phải là các giải pháp mang tính chất đối phó mà Việt Nam sẽ tiếp tục kiên trì nỗ lực để đảm bảo xây dựng một nghề cá bền vững trong tương lai”.

Thứ trưởng Hà Công Tuấn thông tin thêm: Mới đây, Việt Nam đã cử đoàn công tác cấp cao với đại diện tham dự của nhiều bộ, ngành, trong đó Bộ trưởng Bộ NN&PTNT làm trưởng đoàn sang làm việc trực tiếp với phía EC. Tuy nhiên, nhìn thẳng vào thực tế, Việt Nam cũng đang gặp nhiều khó khăn, cần có lộ trình để xử lý các vấn đề, đạt được mục tiêu như mong muốn từ EC.

“Biển trời mênh mông, có hàng chục nghìn con tàu với hàng vạn ngư dân, không dễ gì làm tốt được trong thời gian ngắn. Ngoài ra, việc kiểm soát ở các cảng còn nhiều vấn đề cần rút kinh nghiệm để đảm bảo truy xuất nguồn gốc hàng hóa. Bên cạnh đó, khâu phối hợp giữa các ngành từ chia sẻ thông tin đến hành động, nhất là phối hợp trên biển còn nhiều khó khăn. Việt Nam đang còn nghèo, mong muốn trang bị thiết bị hiện đại để kiểm soát hải trình của tàu cá. Tuy nhiên, việc đầu tư chưa được nhiều, không phải tàu nào cũng có thiết bị định vị”, Thứ trưởng Hà Công Tuấn phân tích.

Hiện tại, phía EC đã đồng ý cuối tháng 4 hoặc đầu tháng 5 tới sẽ cử đoàn làm việc sang Việt Nam để đánh giá thực tế, sau đó xem xét có rút thẻ vàng cho Việt Nam hay không. Các nước “láng giềng” xung quanh Việt Nam cũng có một số nước từng bị EC áp dụng “thẻ vàng” nhưng chưa có nước nào được gỡ bỏ sau thời gian 6 tháng.

“Việt Nam đang cố gắng nếu không gỡ bỏ được thẻ vàng trong 6 tháng thì cũng chỉ thêm một thời gian ngắn. Trong quan hệ song phương, những nỗ lực của Việt Nam chỉ chiếm 50%. Tuy nhiên, với những tiến bộ từ phía Việt Nam và sự trao đổi thẳng thắng đôi bên, tin tưởng rằng, thời gian tới, dù chưa gỡ bỏ được thẻ vàng cũng không để ảnh hưởng tới quan hệ thương mại đôi bên”, Thứ trưởng Hà Công Tuấn nói.

Báo Chính phủ

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 10:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,210 ▲20K 8,400 ▲30K
Miếng SJC Nghệ An 8,210 ▲20K 8,400 ▲30K
Miếng SJC Hà Nội 8,210 ▲20K 8,400 ▲30K
Cập nhật: 20/04/2024 10:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 10:00