“Việt Nam là ngôi sao sáng trong nền kinh tế toàn cầu sau đại dịch”

08:40 | 02/10/2020

128 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Asia Times đánh giá cao nỗ lực chống dịch và phục hồi kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh cuộc khủng hoảng Covid-19 bao trùm toàn cầu.
“Việt Nam là ngôi sao sáng trong nền kinh tế toàn cầu sau đại dịch” - 1
Áp phích tuyên truyền phòng chống Covid-19 trên đường phố Hà Nội (Ảnh: AFP)

Theo trang tin Asia Times, tương tự các nước láng giềng, nền kinh tế Việt Nam cũng gặp khó khăn sau nhiều tháng chiến đấu với đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một ngoại lệ nhờ vào việc ứng phó hiệu quả với dịch bệnh, với sự tăng trưởng ấn tượng.

Do vậy, nền kinh tế Việt Nam được kỳ vọng sẽ sớm chứng kiến những tín hiệu tích cực sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát, trong khi đây là điều khó có thể thực hiện đối với những nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch bệnh.

Các số liệu đã nói lên tất cả. Tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quý 2 năm 2020 khoảng 0,4%. Mặc dù đây là con số thấp nhất của nền kinh tế Việt Nam trong 35 năm qua, nhưng đó cũng là số liệu đáng kể so với các nước láng giềng, khi một số nước thậm chí còn có tăng trưởng âm.

Ngân hàng Thế giới dự đoán tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể đạt 2,8% trong năm 2020 và sẽ hồi phục về mức 6,7% trong năm tới. Tổ chức đánh giá tín nhiệm S&P Global Ratings dự đoán Việt Nam sẽ là quốc gia có phát triển cao nhì trong số các nền kinh tế tại châu Á trong năm nay.

Tất cả những số liệu trên cho thấy Việt Nam đã sẵn sàng để hồi phục trở lại sau cuộc khủng hoảng dịch bệnh. Việt Nam sẽ nổi lên nhanh chóng trong giai đoạn sau đại dịch, và trở thành một trong những quốc gia có mức tăng trưởng tốt nhất trong nền kinh tế toàn cầu, như Việt Nam từng như vậy trong một thập niên qua.

Nhờ vào các biện pháp cách ly nghiêm ngặt để kiểm soát sự lây lan của Covid-19 trong suốt nhiều tháng, Việt Nam hiện nay dần trở thành một trong những điểm thu hút đầu tư nước ngoài hấp dẫn nhất.

Hiệu quả trong việc kiểm soát dịch bệnh đã đưa Việt Nam trở thành nơi an toàn cho các doanh nghiệp quốc tế tới làm ăn kinh doanh cả trong và sau cuộc khủng hoảng Covid-19. Theo cuộc nghiên cứu do tổ chức Deep Knowledge Group của Hong Kong công bố, Việt Nam là nơi an toàn thứ 9 tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong lúc dịch bệnh bùng phát.

Gần đây, Việt Nam đã dần nối lại các chuyến bay quốc tế và dỡ bỏ phong tỏa tại các điểm nóng dịch bệnh trước đây. Điều này làm dấy lên lo ngại về nguy cơ lây nhiễm trước làn sóng Covid-19 tiếp theo. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ nguy cơ này và vẫn theo dõi chặt chẽ tình hình.

Hơn nữa, nhờ vào những kinh nghiệm quý báu trong việc đối phó với dịch bệnh cũng như sự chuẩn bị kỹ lưỡng, Việt Nam đã đạt được sự cân bằng hợp lý giữa việc đảm bảo sức khỏe cộng đồng và tăng trưởng kinh tế. Do vậy, Việt Nam sẽ là một trong số ít những điểm sáng trong bức tranh kinh tế ảm đạm toàn cầu.

Điểm đến hấp dẫn

Giới phân tích cho rằng Việt Nam đã trở thành nước thắng lớn trong bối cảnh khu vực hiện tại. Việt Nam, với các điều kiện thuận lợi, là lựa chọn tốt cho các nước muốn tìm địa điểm để chuyển dịch chuỗi sản xuất.

Chính phủ Nhật Bản đã trợ cấp cho 15 công ty để chuyển nhà máy tới Việt Nam, mở đường cho làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản tại Việt Nam. Theo một báo cáo của Goldman Sachs, nhiều doanh nghiệp Mỹ khi được hỏi về các địa điểm phù hợp nhất để dịch chuyển chuỗi cung ứng, Việt Nam và Ấn Độ là hai cái tên được nhắc đến nhiều nhất.

Mặc dù Việt Nam chưa thể trở thành một công xưởng toàn cầu, nhưng Việt Nam đang có cơ hội chưa từng thấy để trở thành một trung tâm sản xuất, với điều kiện Việt Nam có thể tận dụng các làn sóng đầu tư sắp tới.

Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng Covid-19, khi nhiều quốc gia phải đối mặt với suy thoái kinh tế, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục có những bước đi vững chắc hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế.

Ngày 8/6, Việt Nam đã phê chuẩn hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA), có hiệu lực từ ngày 1/8. Đồng thời, Việt Nam cũng hợp tác chặt chẽ với các thành viên khác của Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) với hy vọng sẽ ký kết hiệp định thương mại tự do trước năm 2021.

Tất cả những thành tựu này có thể được xem là nổi bật trong tình hình hiện nay, khi các hoạt động kinh tế toàn cầu đang gặp nhiều khó khăn. Việt Nam được dự đoán là sẽ hưởng lợi đáng kể từ các hiệp định thương mại tự do này.

EVFTA sẽ giúp giảm thuế đối với các mặt hàng thủy sản, dệt may và sản phẩm gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang EU. Đây cũng là những mặt hàng Việt Nam có lợi thế cạnh tranh đáng kể. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền kinh tế của Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế cạnh tranh hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Mặc dù bị ảnh hưởng đáng kể bởi đại dịch Covid-19 như nhiều nền kinh tế khác trong khu vực, song Việt Nam vẫn được khen ngợi vì những gì đã làm được cho đến nay. Việt Nam chắc chắn nằm trong số ít các nước được nhiều hơn mất sau cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu.

Nếu vẫn duy trì được động lực phát triển như hiện tại, Việt Nam sẽ trở thành ngôi sao sáng trong nền kinh tế khu vực và toàn cầu, mở đường cho việc trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 như mục tiêu đề ra.

Theo Dân trí

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC HCM 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 ▲450K 69,450 ▲550K
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 ▲450K 69,350 ▲550K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Cập nhật: 28/03/2024 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
TPHCM - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Hà Nội - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Hà Nội - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Miền Tây - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Miền Tây - SJC 79.000 ▲200K 81.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 ▲300K 69.200 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 ▲220K 52.050 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 ▲170K 40.630 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 ▲130K 28.940 ▲130K
Cập nhật: 28/03/2024 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 ▲30K 6,990 ▲30K
Trang sức 99.9 6,825 ▲30K 6,980 ▲30K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NL 99.99 6,830 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Nghệ An 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Hà Nội 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Cập nhật: 28/03/2024 20:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 ▲100K 81,000 ▲100K
SJC 5c 79,000 ▲100K 81,020 ▲100K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 ▲100K 81,030 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 ▲250K 69,750 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 ▲250K 69,850 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 68,400 ▲250K 69,250 ▲300K
Nữ Trang 99% 67,064 ▲297K 68,564 ▲297K
Nữ Trang 68% 45,245 ▲204K 47,245 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 27,030 ▲125K 29,030 ▲125K
Cập nhật: 28/03/2024 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 28/03/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,778 15,798 16,398
CAD 17,933 17,943 18,643
CHF 26,868 26,888 27,838
CNY - 3,361 3,501
DKK - 3,497 3,667
EUR #25,890 26,100 27,390
GBP 30,724 30,734 31,904
HKD 3,040 3,050 3,245
JPY 159.68 159.83 169.38
KRW 16.15 16.35 20.15
LAK - 0.68 1.38
NOK - 2,206 2,326
NZD 14,529 14,539 15,119
SEK - 2,245 2,380
SGD 17,799 17,809 18,609
THB 626.97 666.97 694.97
USD #24,555 24,595 25,015
Cập nhật: 28/03/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 28/03/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/03/2024 20:00