Trung Quốc quay cuồng vì dịch tả lợn châu Phi

22:12 | 18/12/2019

386 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau khi một con trong đàn lợn đột ngột chết ba tháng trước, Peng Weita nhanh chóng giết 40 con còn lại, phòng nguy cơ lây lan dịch tả lợn.

Tuy nhiên, thay vì báo cáo với chính quyền để được bồi thường, Peng Weita đã chôn đàn lợn ngay lập tức. "Chi phí đầu tư trong ba năm chẳng còn lại gì", người nông dân sống tại làng Wulongqiao ở phía bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc cho hay.

Sự mất mát của ông Peng cũng gây tổn hại với chính quyền. Do ông không khai báo, giới chức địa phương không thể chắc chắn rằng ông đã tuân thủ tất cả bước cần thiết để ngăn dịch bệnh lây lan, như khử trùng và chôn xác lợn cách xa trang trại. Ông Peng thừa nhận đã chôn chúng khá gần trang trại của mình, nhưng từ chối tiết lộ thêm chi tiết về quá trình xử lý xác lợn trước khi chôn.

Trung Quốc quay cuồng vì dịch tả lợn châu Phi
Một khu chợ bán buôn thịt lợn ở Bắc Kinh, Trung Quốc. Ảnh: NY Times.

Theo bình luận viên Keith Bradsher và Ailin Tang của NY Times, dịch tả lợn châu Phi dường như đã để lộ những mặt hạn chế của chính quyền Trung Quốc trong việc xử lý các vấn đề quan trọng. Họ tỏ ra lúng túng trong quá trình áp dụng các giải pháp từ trên xuống và đã phải trả giá.

Dịch tả lợn châu Phi (ASF) đang tàn phá ngành chăn nuôi của Trung Quốc, nước có số lượng lợn nhiều nhất thế giới, "xóa sổ" 1/3 đàn lợn của nước này. Loại virus này vô hại với người nhưng gây tử vong cho lợn và chưa có thuốc chữa hay vắc xin. Dịch bắt nguồn từ châu Phi, được ghi nhận ở Đông Âu và Nga trước khi xuất hiện lần đầu ở Trung Quốc vào tháng 8/2018, sau đó lan sang nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam.

Ngăn chặn các dịch bệnh luôn là một nhiệm vụ khó khăn. Những trang trại nhỏ, thường tập trung trong các khu nông nghiệp đông đúc, sở hữu gần một nửa số lợn của Trung Quốc. Để ngăn dịch lây lan, các quan chức và nhân viên phòng dịch cần tiếp cận hàng triệu nông dân chăn nuôi nhỏ lẻ.

Quá trình xử lý dịch tả lợn tập trung vào việc tái thiết mô hình nông nghiệp. Với khoản trợ cấp lớn, Bắc Kinh đã yêu cầu các chính quyền và doanh nghiệp địa phương xây dựng những trang trại quy mô công nghiệp, đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn, như thiết lập khu vực cách ly chứa lợn mới đến và lò đốt lợn bệnh.

Giải pháp này có thể hiệu quả về lâu dài, nhưng sự lúng túng của Trung Quốc trong trường hợp cần phản ứng tức thì dường như đã khiến tình hình tồi tệ hơn.

Khi dịch bắt đầu lan rộng 16 tháng trước, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc yêu cầu chính quyền địa phương tiêu hủy toàn bộ đàn lợn nếu phát hiện dù chỉ một con nhiễm bệnh, đồng thời bồi thường cho nông dân với mức cao nhất lên tới 170 USD với những con lợn cỡ lớn. Tuy nhiên, trước khi dịch bùng phát, nhiều con đã có giá trên 250 USD, theo số liệu của chính phủ. Dịch bệnh khiến mức giá thậm chí tăng vọt lên hơn 600 USD.

Thêm vào đó, để nhận được tiền bồi thường, nhiều nông dân phải "vượt cửa ải" của chính quyền địa phương vốn không có nhiều ngân sách, nơi các quan chức thường gây khó dễ do chính phủ chỉ hỗ trợ 40-80% chi phí bồi thường. Giới chức còn phải nộp bằng chứng lợn chết vì virus tả lợn châu Phi chứ không phải bệnh khác mới được cấp phí.

Hậu quả là việc tiêu hủy lợn bệnh bị chậm. Dữ liệu của chính phủ cho thấy mới chỉ có 1,2 triệu con lợn, chiếm dưới 0,3% số lợn của cả nước, bị tiêu hủy. Hiện chưa rõ số lợn bệnh còn lại được đưa đi đâu, nhưng giới chuyên gia cho rằng nhiều con khả năng cao đã bị làm thịt và đưa vào thị trường.

Hành vi này sẽ khiến dịch bệnh lây lan tồi tệ hơn, bởi virus có thể tồn tại trong thịt suốt nhiều tháng. Australia phát hiện gần một nửa số xúc xích và sản phẩm thịt lợn khác do hành khách mang theo vào nước này gần đây bị nhiễm dịch, Mark Schipp, chủ tịch Tổ chức Sức khỏe Động vật Thế giới trụ sở tại Paris, Pháp, cho hay.

Nhiều nông dân Trung Quốc cho biết họ cũng không thiết tha đòi tiền bồi thường bởi chúng khá thấp. Peng kể lại rằng ông đã giết đàn lợn của mình trong hoảng loạn và bí mật chôn chúng, nên không có bằng chứng về việc đàn lợn bị nhiễm bệnh.

Giới chức Trung Quốc còn cố trấn an người dân bằng cách tuyên bố đã kiểm soát được dịch bệnh hồi tháng 4, tháng 7 và tháng 10, nhưng đổi lại là những dấu hiệu cho thấy dịch thậm chí lây lan rộng hơn. Bộ Nông nghiệp Trung Quốc gần đây thừa nhận họ chỉ hy vọng sản lượng thịt lợn cuối năm sau bằng 4/5 mức bình thường.

Trung Quốc quay cuồng vì dịch tả lợn châu Phi
Lợn thịt được đưa vào một nhà kho thuộc hệ thống dự trữ thịt lợn quốc gia Trung Quôc ở ngoại ô Bắc Kinh. Ảnh: NY Times.

Quá trình đối phó với dịch tả lợn cũng tái hiện rõ ràng nỗ lực tự đáp ứng đủ nhu cầu thực phẩm của đất nước 1,4 tỷ dân. Trung Quốc lâu nay vẫn coi an ninh lương thực tương đương với an ninh quốc gia. Về cơ bản, họ đã tự túc đủ thịt lợn, cũng như gạo và lúa mì nhờ sự hỗ trợ từ chính quyền và quản lý đất nông nghiệp thích hợp. Tuy nhiên, dịch tả lợn đã đặt ra thử thách đối với sự phụ thuộc vào thịt của những người dân có nhu cầu ngày càng cao, đồng thời tác động sâu sắc đến thế giới.

Giá thịt lợn tăng mạnh khiến mức giá thực phẩm nói chung của Trung Quốc tháng trước cao hơn 1/5 so với cùng kỳ năm ngoái, sau 7 năm rất ít biến động. Việc Trung Quốc nhập khẩu số lượng lớn thịt lợn cũng đẩy giá mặt hàng này tại Mỹ, châu Âu và toàn cầu. Do vậy, từ xúc xích Đức tới thịt viên Việt Nam đều tăng giá.

Việc các hộ gia đình khắp thế giới tìm kiếm nguồn thực phẩm thay thế khiến giá thịt bò và thịt cừu cũng tăng mạnh, dẫn tới giá thịt nói chung trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng gần 20% trong năm qua. Nhằm thúc đẩy ngành sản xuất thịt bò và thịt gà đáp ứng nhu cầu thị trường, nhiều nông dân Brazil đã đốt rừng ở Amazon để lấy đất nông nghiệp.

"Dịch tả lợn có thể gây ảnh hưởng sâu rộng tới nền kinh tế ở cấp độ toàn cầu. Chúng tôi không nghĩ thế giới có đủ thịt lợn để bù đắp sự thiếu hụt ở Trung Quốc", Boubaker Ben Belhassen, giám đốc thương mại và thị trường của Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Thế giới, nhận định.

Tính cấp bách của dịch tả lợn được cho là một trong những yếu tố thúc đẩy Bắc Kinh chấp nhận thỏa thuận thương mại giai đoạn một với Washington, qua đó giúp nối lại nhập khẩu thực phẩm Mỹ. Giá thịt lợn ở Trung Quốc đã tăng cao đến mức Guangxi Yangxiang, một công ty chăn nuôi ở Quảng Tây, phải treo biển tuyển dụng nông dân với dòng chữ: "Nuôi 10 con lợn nái để lái BMW vào năm sau".

Su Dezhi, người bán thịt lợn tại khu chợ ngoài trời ở làng Wulongqiao, cho biết anh từng mua và xẻ thịt hai con lợn mỗi ngày để bán, nhưng bây giờ chỉ bán được nửa con một ngày. Giá bán buôn mỗi kg thịt lợn đã tăng hơn gấp ba.

Tuy nhiên, người tiêu dùng Trung Quốc dường như vẫn không muốn ăn thứ gì khác ngoài thịt lợn. She Xinbao, người bán gà vịt gần quầy hàng của Su, cho biết doanh số của anh chỉ tăng từ 30 con mỗi ngày lên mức 33-34 con, một phần vì giá gia cầm cũng tăng.

Chen Zhixiang, nông dân 36 tuổi, nằm trong số rất ít người chăn nuôi lợn ở Wulongqiao không mất bất cứ con lợn nào. Anh dùng ngô nấu cám cho lợn thay vì mua nguồn thực phẩm có nguy cơ nhiễm virus từ bên ngoài. Chen cho biết lợn ở địa phương khan hiếm tới mức khi anh lái xe tới một ngôi làng để bán lợn, đám đông lập tức vây quanh.

"Mọi người tập trung quanh xe tải của tôi và nhìn chằm chằm vào chúng, như thể họ đang ngắm gấu trúc vậy", anh kể.

Theo VNE

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,800 84,000
AVPL/SJC HCM 81,800 84,000
AVPL/SJC ĐN 81,800 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,250 74,200
Nguyên liệu 999 - HN 73,150 74,100
AVPL/SJC Cần Thơ 81,800 84,000
Cập nhật: 26/04/2024 03:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.000 84.300
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 26/04/2024 03:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,305 7,510
Trang sức 99.9 7,295 7,500
NL 99.99 7,300
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,280
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,370 7,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,370 7,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,370 7,540
Miếng SJC Thái Bình 8,230 8,430
Miếng SJC Nghệ An 8,230 8,430
Miếng SJC Hà Nội 8,230 8,430
Cập nhật: 26/04/2024 03:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 84,300
SJC 5c 82,000 84,320
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 84,330
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,000
Nữ Trang 99% 71,267 73,267
Nữ Trang 68% 47,975 50,475
Nữ Trang 41.7% 28,511 31,011
Cập nhật: 26/04/2024 03:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,132.31 16,295.26 16,818.06
CAD 18,084.86 18,267.53 18,853.61
CHF 27,078.76 27,352.28 28,229.82
CNY 3,428.68 3,463.32 3,574.97
DKK - 3,581.24 3,718.38
EUR 26,509.78 26,777.56 27,963.40
GBP 30,937.15 31,249.64 32,252.22
HKD 3,157.93 3,189.82 3,292.16
INR - 303.56 315.69
JPY 158.10 159.69 167.33
KRW 15.97 17.75 19.36
KWD - 82,247.73 85,536.02
MYR - 5,254.14 5,368.74
NOK - 2,269.41 2,365.76
RUB - 261.89 289.91
SAR - 6,745.43 7,015.11
SEK - 2,290.51 2,387.76
SGD 18,188.62 18,372.35 18,961.78
THB 605.39 672.66 698.42
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 26/04/2024 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,212 16,232 16,832
CAD 18,259 18,269 18,969
CHF 27,278 27,298 28,248
CNY - 3,431 3,571
DKK - 3,559 3,729
EUR #26,352 26,562 27,852
GBP 31,181 31,191 32,361
HKD 3,108 3,118 3,313
JPY 158.75 158.9 168.45
KRW 16.27 16.47 20.27
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,234 2,354
NZD 14,830 14,840 15,420
SEK - 2,255 2,390
SGD 18,093 18,103 18,903
THB 630.94 670.94 698.94
USD #25,070 25,070 25,477
Cập nhật: 26/04/2024 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,155.00 25,475.00
EUR 26,606.00 26,713.00 27,894.00
GBP 30,936.00 31,123.00 32,079.00
HKD 3,170.00 3,183.00 3,285.00
CHF 27,180.00 27,289.00 28,124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16,185.00 16,250.30 16,742.00
SGD 18,268.00 18,341.00 18,877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18,163.00 18,236.00 18,767.00
NZD 14,805.00 15,299.00
KRW 17.62 19.25
Cập nhật: 26/04/2024 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25155 25155 25477
AUD 16349 16399 16909
CAD 18342 18392 18848
CHF 27509 27559 28112
CNY 0 3463.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26943 26993 27703
GBP 31492 31542 32200
HKD 0 3140 0
JPY 160.89 161.39 165.9
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14917 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18446 18496 19057
THB 0 644.5 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 03:00