Thách thức từ cam kết mở cửa thị trường

15:49 | 10/05/2012

609 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việt Nam đã, đang và sẽ hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Đây là xu thế khách quan không thể đảo ngược. Hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức.

Không như kỳ vọng

Ngày 10/5, Trung tâm hỗ trợ hội nhập WTO TP HCM và Hiệp hội doanh nghiệp thành phố tổ chức diễn đàn hội nhập kinh tế với chủ đề “Diễn tiến tác động hội nhập đến hoạt động thương mại của Việt Nam”. Các chuyên gia đã trình bày những tác động từ cam kết mở cửa thị trường trong gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các Hiệp định khu vực Thương mại tự do (FTAs) đến hoạt động sản xuất, thương mại của Việt Nam.

Ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ, chuyên gia cao cấp Văn phòng Chính phủ đánh giá: Giai đoạn 2006 – 2010, phản ánh cơ hội mới cho chúng ta bức phá nhờ đẩy nhanh hội nhập (gia nhập WTO) và các cam kết FTAs), song kết quả không như kỳ vọng. Bất ổn vĩ mô trở thành vấn đề nghiêm trọng do các cú sốc từ bên ngoài cùng những sai lầm chính sách. Việt Nam đã quá thiên về mục tiêu tăng trưởng dựa trên bành trướng đầu tư và tín dụng.

Ông Trương Đình Tuyển trình bày về tác động của cam kết mở của thị trường trong WTO và FTAs với Việt Nam

Môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng hơn và tự do hóa thương mại đã tạo điều kiện cho Việt Nam tận dụng hiệu quả hơn lợi thế chi phí lao động, tài nguyên thiên nhiên, thúc đẩy xuất khẩu. Bước đầu, nước ta đã có sự chuyển dịch tích cực trong sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng thâm dụng vốn và đòi hỏi trình độ công nghệ cao. FDI cũng góp phần quan trọng trong thúc đẩy Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất khu vực và toàn cầu.

Tuy sau khi gia nhập WTO luồng vốn đầu tư tăng mạnh nhưng tỉ trọng đầu tư vào các ngành chế biến, chế tạo giảm đi, đầu tư vào khu vực dịch vụ, bất động sản tăng. Đầu tư tăng nhưng lại góp phần gia tăng nhập siêu (nếu trừ phần xuất khẩu dầu thô thì FDI vẫn là khu vực nhập siêu).

Đầu tư cao nhưng hiệu quả đầu tư ngày càng thấp, chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư ngày càng lớn là nguyên nhân gốc rễ của lạm phát và những bất ổn kinh tế vĩ mô thời gian qua.

Trong một số năm gần đây, tốc độ tăng xuất khẩu của nước ta vào các thị trường có FTA tăng lên nhưng nhập khẩu từ các thị trường này còn cao hơn.

Do tín dụng tăng mạnh và bành trướng đầu tư kéo dài đã khuyến khích đầu cơ đất đai, tài sản tài chính, vấn đề này có thể thấy ở cả doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và FDI. Đầu cơ đất đai, tài chính, “ăn sổi” và việc chỉ tận dụng lợi thế so sánh vốn có dễ tạo nguy cơ đẩy Việt Nam vào “kinh tế bong bóng” (cùng đổ vỡ kinh tế, xã hội) hoặc bẫy tự do hóa thương mại trong dài hạn.

Hạn chế trong chính sách thương mại

Hội nhập kinh tế quốc tế và các cú sốc bên ngoài còn tương tác với những điểm mạnh và điểm yếu trong cơ cấu kinh tế và những chính sách của Nhà nước.

Hội nhập kinh tế quốc tế đem lại nhiều lợi ích nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức

Trong nghiên cứu của nhóm các cán bộ đến từ Bộ Công Thương, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Viện Kinh tế Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện đã chỉ ra một số hạn chế trong chính sách thương mại của nước ta như sau:

Các văn bản pháp quy liên quan đến chính sách quản lý xuất khẩu của các Bộ, ngành thường xuyên bổ sung, sửa đổi nhưng chưa được phổ biến rộng rãi trước khi có hiệu lực. Việc tham vấn doanh nghiệp trong xây dựng các văn bản pháp quy chưa được chú trọng đúng mức. Kết quả là doanh nghiệp và cơ quan quản lý chưa có sự chủ động cần thiết.

Công tác tổ chức xuất khẩu, nhất là đối với các mặt hàng có khối lượng và giá trị lớn còn nhiều hạn chế, chưa tạo điều kiện tốt để xác lập mối liên kết giữa người sản xuất nguyên liệu, doanh nghiệp chế biến, thương nhân nhằm đảm bảo sản xuất ổn định, chất lượng sản phẩm, khả năng điều tiết hàng xuất khẩu, đạt giá xuất khẩu cao.

Chưa xây dựng đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm… nhằm góp phần bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng phù hợp với các quy định của WTO. Việc tận dụng các biện pháp phòng vệ thương mại chưa thực sự hiệu quả. Trong khi đó, đây là biện pháp hữu hiệu để góp phần bảo vệ sản xuất trong nước.

TS Võ Trí Thành phát biểu tại diễn đàn

TS Võ Trí Thành – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng: Thực thi cam kết trong WTO và các FTA tác động lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp trên thị trường nội địa nên các chính sách của Nhà nước cần tạo điều kiện, hỗ trợ các thành phần kinh tế trong nước phát triển hệ thống phân phối, thúc đẩy hình thành các doanh nghiệp phân phối lớn của nước ta với cơ sở kinh doanh hiện đại, giữ vai trò dẫn dắt thị trường, vươn lên cạnh tranh.

Các doanh nghiệp trong nước nên tổ chức lại thị trường theo những mô hình kinh doanh mới, xác lập các liên kết sản xuất, phân phối đến tiêu dùng và xuất khẩu, hình thành các chuỗi cung ứng để có thể tạo được chỗ đứng vững chắc trong các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Các chuyên gia kinh tế đánh giá: Việt Nam đã, đang và sẽ hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Đây là xu thế khách quan không thể đảo ngược. Nhưng hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức.

Quá trình hội nhập và thực hiện cam kết theo các tuyến hội nhập không đồng nghĩa với việc Việt Nam mất đi “không gian chính sách”. Theo đuổi các mục tiêu hội nhập và phát triển bền vững trong thời đại ngày nay phải được thực hiện bằng công cụ chính sách tinh vi hơn, khoa học hơn và có tính liên ngành, đa ngành hơn.

Mai Phương