Sự thật đằng sau khả năng phục hồi kinh tế ấn tượng của Trung Quốc

16:19 | 24/09/2020

164 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
China Beige Book cho biết, cuộc khảo sát của họ cho thấy có một câu chuyện hoàn toàn khác về sự phục hồi kinh tế của Bắc Kinh sau đại dịch Covid-19.
Sự thật đằng sau khả năng phục hồi kinh tế ấn tượng của Trung Quốc - 1
Cầu ở Trung Quốc tụt hậu so với nguồn cung cả năm, với doanh số bán lẻ và nhập khẩu có xu hướng thấp hơn nhiều so với sản xuất công nghiệp và xuất khẩu.

Theo các nghiên cứu mới nhất, Trung Quốc được báo là nền kinh tế lớn đầu tiên phục hồi sau tác động của đại dịch Covid-19, nhưng sự hồi sinh đó vẫn còn chắp vá và được cho là đánh giá cao quá mức.

China Beige Book, một công ty phân tích độc lập, đã thực hiện cuộc khảo sát với các công ty Trung Quốc cho biết, đối với “tầng lớp doanh nghiệp” các công ty lớn ở Thượng Hải, Bắc Kinh và Quảng Đông, nền kinh tế đang tăng tốc, nhưng “hầu hết các công ty ở các khu vực khác đều có sự phục hồi chậm chạp hơn nhiều”.

Số liệu chính thức cho thấy, trong quý II năm 2020, nền kinh tế Trung Quốc đã tăng 3,2% so với một năm trước đó, sau khi sụt giảm kỷ lục 6,8% trong ba tháng đầu năm.

Một số nhà phân tích dự báo, tăng trưởng hàng năm của nước này là hơn 5% trong quý III, Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy, có một bức tranh không đồng đều trên thực tế.

Tăng trưởng về sản lượng và doanh thu dự kiến ​​sẽ yếu hơn từ tháng 7 đến tháng 9 đối với các công ty ở hầu hết các khu vực nhỏ khác so với một năm trước đó, ngay cả khi các điều kiện đã được cải thiện kể từ quý II.

Các nhà nghiên cứu của công ty cho rằng: “Hiện có hai sự phục hồi kinh tế rất khác nhau của Trung Quốc. Bắc Kinh đang nói dối về ít nhất một trong hai”.

Công ty đã sử dụng chỉ số lan tỏa - một mô hình được sử dụng để tính toán các chỉ số của nhà quản lý mua hàng, được coi là một ảnh chụp nhanh toàn thể của nền kinh tế trước khi công bố dữ liệu chính thức.

Trong trường hợp của China Beige Book, số 0 là ranh giới phân chia giữa mở rộng và thu hẹp, trên thang điểm từ cộng 100 đến trừ 100. Công ty đã dùng số lượng người trả lời tiêu cực và người trả lời tích cực để tính toán một con số tổng hợp cho 8 khu vực ở Trung Quốc.

Các tác giả đã chỉ ra sự khác biệt giữa dữ liệu khảo sát và con số chính thức, mà họ cho là “bộ mặt công khai của câu chuyện phục hồi của Bắc Kinh”.

“Đối với giới tinh hoa doanh nghiệp - các công ty lớn và những công ty có trụ sở tại ba vùng duyên hải lớn - nền kinh tế đang tăng tốc. Đây là sự phục hồi mà Bắc Kinh muốn làm nổi bật và hầu hết các nhà quan sát nước ngoài có thể nhận thấy”, Derek Scissors, nhà kinh tế trưởng tại China Beige Book cho biết.

“Nhưng phần còn lại của Trung Quốc - hầu hết các công ty ở các khu vực khác - đang chứng kiến ​​sự phục hồi không mấy tốt đẹp”.

China Beige Book đã khảo sát 3.300 công ty trên 34 lĩnh vực ở tất cả các tỉnh và khu vực của Trung Quốc, phỏng vấn kết hợp giữa các công ty thuộc sở hữu nhà nước và tư nhân.

Theo xu hướng tương ứng với dữ liệu chính thức, lĩnh vực sản xuất đã tốt hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác, cho thấy nền kinh tế Trung Quốc đang phục hồi với tốc độ tốt. Nhưng cầu đã tụt hậu so với cung, với việc doanh số bán lẻ và nhập khẩu có xu hướng thấp hơn nhiều so với sản xuất công nghiệp và xuất khẩu.

Công ty cũng đã thăm dò ý kiến ​​của 160 nhân viên ngân hàng và nhận thấy rằng trong khi khoản vay không đổi ở nhiều vùng nội địa, thì tỷ lệ này lại tăng vọt ở các vùng duyên hải “ba lớn” - với tỷ lệ “gấp đôi hoặc gấp ba” ở các vùng khác của Trung Quốc.

Nghiên cứu của China Beige Book đã đưa ra những con số chính thức, cho thấy thực tế sự mất cân bằng trong phục hồi kinh tế của Trung Quốc đã rõ ràng từ đầu năm. Vào tháng 2 và tháng 3, các nhà sản xuất lớn đã nhanh chóng hoạt động gần hết công suất trở lại, trong khi các nhà máy nhỏ hơn vẫn phải vật lộn với dây chuyền sản xuất do hạn chế đi lại đối với lao động nhập cư.

Ngay cả khi nền kinh tế được dự báo sẽ lớn hơn trong quý III so với một năm trước đó, các chuyến đi của hành khách đi làm bằng tàu điện ngầm qua các thành phố lớn vẫn thấp hơn đáng kể so với một năm trước đó, theo Nomura.

Nghiên cứu trong ngành dịch vụ ăn uống do Nomura trích dẫn cũng cho thấy, trong cùng tuần, doanh thu nhà hàng đã giảm 28,6% so với đầu tháng 1, trước khi các đợt đóng cửa do virus corona được thực hiện, ngay cả khi số lượng nhà hàng mở cửa tăng lên. Trong khi đó, doanh thu phòng vé đã giảm 48,6% trong tuần tính đến ngày 19/9 so với một năm trước đó.

Tuy nhiên, công ty đầu tư đã nâng dự báo tăng trưởng của Trung Quốc trong quý III lên 5,3%, tăng so với ước tính trước đó là 4,2%.

“Sự phục hồi của Trung Quốc chắc chắn là rất ấn tượng, đặc biệt là khi so sánh với các nền kinh tế lớn khác vẫn còn sa lầy trong đại dịch. Tuy nhiên, chúng ta không nên đánh giá quá cao vì vẫn còn những trở ngại và rào cản”, các nhà nghiên cứu đã viết.

Theo Dân trí

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 69,450 ▲600K 69,900 ▲450K
Nguyên liệu 999 - HN 68,350 ▼400K 69,800 ▲450K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
TPHCM - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Hà Nội - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Hà Nội - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Đà Nẵng - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Miền Tây - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 69.200 ▲800K 70.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 51.250 ▲600K 52.650 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.700 ▲470K 41.100 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.870 ▲330K 29.270 ▲330K
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,915 ▲80K 7,070 ▲80K
Trang sức 99.9 6,905 ▲80K 7,060 ▲80K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,980 ▲80K 7,100 ▲80K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,980 ▲80K 7,100 ▲80K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,980 ▲80K 7,100 ▲80K
NL 99.99 6,910 ▲80K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,910 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Nghệ An 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Hà Nội 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 69,250 ▲750K 70,500 ▲750K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 69,250 ▲750K 70,600 ▲750K
Nữ Trang 99.99% 69,150 ▲750K 70,000 ▲750K
Nữ Trang 99% 67,807 ▲743K 69,307 ▲743K
Nữ Trang 68% 45,755 ▲510K 47,755 ▲510K
Nữ Trang 41.7% 27,343 ▲313K 29,343 ▲313K
Cập nhật: 29/03/2024 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,744.51 15,903.54 16,414.36
CAD 17,859.08 18,039.48 18,618.89
CHF 26,797.53 27,068.21 27,937.63
CNY 3,362.04 3,396.00 3,505.60
DKK - 3,518.32 3,653.18
EUR 26,047.45 26,310.56 27,476.69
GBP 30,507.55 30,815.71 31,805.49
HKD 3,090.38 3,121.59 3,221.86
INR - 296.93 308.81
JPY 159.05 160.66 168.34
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 80,430.82 83,649.45
MYR - 5,194.61 5,308.11
NOK - 2,235.93 2,330.95
RUB - 255.73 283.10
SAR - 6,596.77 6,860.75
SEK - 2,269.46 2,365.91
SGD 17,917.31 18,098.29 18,679.60
THB 600.95 667.72 693.31
USD 24,610.00 24,640.00 24,980.00
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,910 16,010 16,460
CAD 18,074 18,174 18,724
CHF 27,034 27,139 27,939
CNY - 3,394 3,504
DKK - 3,535 3,665
EUR #26,274 26,309 27,569
GBP 30,938 30,988 31,948
HKD 3,096 3,111 3,246
JPY 160.66 160.66 168.61
KRW 16.62 17.42 20.22
LAK - 0.88 1.24
NOK - 2,242 2,322
NZD 14,578 14,628 15,145
SEK - 2,266 2,376
SGD 17,937 18,037 18,637
THB 627.41 671.75 695.41
USD #24,570 24,650 24,990
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,620.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,213.00 26,318.00 27,483.00
GBP 30,653.00 30,838.00 31,788.00
HKD 3,106.00 3,118.00 3,219.00
CHF 26,966.00 27,074.00 27,917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15,849.00 15,913.00 16,399.00
SGD 18,033.00 18,105.00 18,641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,979.00 18,051.00 18,585.00
NZD 14,568.00 15,057.00
KRW 17.62 19.22
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24610 24660 25000
AUD 15946 15996 16411
CAD 18121 18171 18576
CHF 27290 27340 27752
CNY 0 3397.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26478 26528 27038
GBP 31115 31165 31625
HKD 0 3115 0
JPY 161.97 162.47 167
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0254 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14617 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18225 18225 18586
THB 0 639.6 0
TWD 0 777 0
XAU 7900000 7900000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 12:00