Nhiều nhà quản lý doanh nghiệp, giáo sư tự hào vì đi lên từ học nghề

19:00 | 16/08/2018

331 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
“Ngay tại Đức và Nhật Bản, nhiều doanh nhân, giáo sư đại học luôn tự hào vì đi lên từ học nghề. Thậm chí, nhiều chuyên gia còn cho rằng, người đi lên từ học nghề được đánh giá cao bởi ý thức kỷ luật, không ngại khó ngại khổ, có chí hướng, cầu thị và ham học hỏi…”
nhieu nha quan ly doanh nghiep giao su tu hao vi di len tu hoc nghe

Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Lê Quân chia sẻ tại chương trình Giao lưu trực tuyến “Giáo dục nghề nghiệp: Học nghề trước, đại học sau”, do Bộ LĐ-TB&XH và Báo điện tử Dân trí tổ chức chiều 15/8 tại Hà Nội.

Dừng việc chạy theo khoa cử, chuộng bằng cấp

Điều này nhằm lý giải việc học nghề là một kênh hướng nghiệp hợp lý với nhiều bạn trẻ. Đồng thời, học nghề cũng là cách để bạn trẻ có thể học lên trình độ cao hơn, khi bản thân đã hội tụ đủ điều kiện việc làm bền vững, thu nhập ổn định.

Theo Thứ trưởng Lê Quân, để làm tốt điều này, một trong những việc cần làm ngay là thực hiện tốt công tác phân luồng từ cấp THCS. Điều này đã được kiểm chứng ở nhiều nước kinh tế phát triển. Theo đó, tỷ lệ phân luồng vào học nghề của các quốc gia rất cao, thậm chí có nước đạt trên 50%.

“Việt Nam đã đặt ra mục tiêu đến 2020, khoảng 30% học sinh vào học nghề. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh vào học nghề những năm qua còn chiếm thấp bởi tâm lý trọng bằng cấp và nhiều nguyên nhân khác nhau” - Thứ trưởng Lê Quân cho biết.

“Việt Nam đã đặt ra mục tiêu đến 2020, khoảng 30% học sinh vào học nghề. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh vào học nghề những năm qua còn chiếm thấp bởi tâm lý trọng bằng cấp và nhiều nguyên nhân khác nhau” - Thứ trưởng Lê Quân cho biết.

Phân tích hệ luỵ từ sai lầm trong việc quá coi trọng bằng cấp, Thứ trưởng Lê Quân cho rằng: “Trong một thời gian dài, chúng ta chạy theo khoa cử, chuộng bằng cấp. Dẫn đến hệ thống giáo dục thực hiện phân luồng và định hướng người học không đúng với yêu cầu phát triển thị trường lao động. Hệ quả là chúng ta luôn coi học nghề chỉ dành cho học sinh yếu, kém và không đỗ đạt”.

Bên cạnh đó, chất lượng đào tạo liên thông từ học nghề lên đại học và đào tạo đại học tại chức bị coi nhẹ và thả lỏng. Điều này khiến không ít người trong xã hội coi cử nhân đại học liên thông, tại chức kém hơn người tốt nghiệp đại học chính quy.

Thứ trưởng Lê Quân nhấn mạnh: “Thời gian tới, chúng ta phải phá bỏ lối tư duy này. Chọn nghề phù hợp với năng lực sở trường bản thân, với hoàn cảnh kinh tế gia đình trong từng giai đoạn chứ không phải chỉ vì không thi đỗ THPT hoặc đỗ đại học”.

Trường nghề du lịch, kỹ thuật: Đắt hàng

Đánh giá về thực tế tuyển sinh ở các trường nghề, Thứ trưởng Lê Quân cho rằng: Thực tế hiện nay, nhiều trường nghề không đủ sinh viên để giới thiệu cho doanh nghiệp do đầu vào (tuyển sinh) thấp hơn rất nhiều so với đầu ra (nhu cầu tuyển dụng).

“Khảo sát của Bộ LĐ-TB&XH cho thấy, thời gian qua xã hội đã có những thay đổi, việc học nghề đã đi vào thực chất hơn. Học là để có đủ năng lực làm việc đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp quan tâm đến lựa chọn người có năng lực phù hợp chứ không quan tâm nhiều đến bằng cấp” - Thứ trưởng Lê Quân cho biết.

“Các trường nghề hiện đang chiếm ưu thế trong các lĩnh vực cung ứng nhân lực du lịch, dịch vụ, kỹ thuật, công nghệ. Doanh nghiệp rất dễ tuyển người tốt nghiệp đại học, nhưng lại gặp khó trong tuyển người có kỹ năng nghề do cung không đáp ứng được cầu” - Thứ trưởng Lê Quân cho biết.

“Khảo sát của Bộ LĐ-TB&XH cho thấy, thời gian qua xã hội đã có những thay đổi, việc học nghề đã đi vào thực chất hơn. Học là để có đủ năng lực làm việc đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp quan tâm đến lựa chọn người có năng lực phù hợp chứ không quan tâm nhiều đến bằng cấp” - Thứ trưởng Lê Quân cho biết.

Trả lời câu hỏi việc bỏ điểm sàn trong xét tuyển đại học có ảnh hưởng tới chất lương tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp, Thứ trưởng Lê Quân cho biết năm 2017 là năm đầu tiên các trường nghề tuyển sinh đủ chỉ tiêu. Các trường nghề đã "lội ngược dòng" thành công.

“Ban đầu, nhiều người cho rằng khi đại học bỏ điểm sàn xét tuyển, các trường cao đẳng, trung cấp sẽ không tuyển sinh được. Nhưng thực tế đã cho thấy xã hội đã nhìn nhận đúng khi lựa chọn trường lớp theo nhu cầu thị trường lao động. Đến thời điểm này, các trường nghề có kết quả tuyển sinh vượt trội so với những năm trước” - Thứ trưởng Lê Quân nói.

Theo Tồn cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ LĐ-TB&XH), kết quả tuyển sinh trung cấp trong những năm gần đây có xu hướng tăng, cụ thể năm 2016 là 290.231 học sinh, năm 2017 là 310.000 học sinh, năm 2018 ước khoảng 320.000 HS, trong đó có khoảng 85 - 90% là học sinh tốt nghiệp THCS.

Nhiều lựa chọn cho bạn trẻ tham gia giáo dục nghề nghiệp Theo Thứ trưởng Lê Quân:

“Hết lớp 9, các em vào học nghề theo các chương trình trung cấp, cao đẳng, kết hợp với học văn hóa. Như vậy, ở tuổi 18 các em hoàn toàn đủ năng lực để tham gia thị trường lao động có chuyên môn kỹ thuật. Các em được miễn học phí học trung cấp nghề. Các em tiết kiệm được từ hai đến ba năm so với bạn bè vào học THPT.

Tại bất kỳ thời gian nào, các em hoàn toàn có thể học tiếp đại học liên thông với thời gian từ 1.5 đến 2 năm. Cơ hội thành công sẽ rất cao với các em học sinh có năng lực.

Hết lớp 12, các em vào học trung cấp với thời gian từ 1 đến 1,5 năm hoặc học cao đẳng với thời gian từ 2 đến 3 năm. Học phí các trường nghề thấp, thời gian thực hành thường chiếm trên 50%, học đi đôi với hành.

Cơ hội việc làm đúng ngành nghề thường đạt trên 80%. Rất nhiều trường cam kết việc làm với mức thu nhập trên 7 triệu đồng/tháng cho người học”.

Theo Dân trí

nhieu nha quan ly doanh nghiep giao su tu hao vi di len tu hoc nghe Ăn chặn tiền học nghề
nhieu nha quan ly doanh nghiep giao su tu hao vi di len tu hoc nghe Chìa khóa vào đời

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC HCM 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 ▲450K 69,450 ▲550K
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 ▲450K 69,350 ▲550K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Cập nhật: 28/03/2024 20:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
TPHCM - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Hà Nội - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Hà Nội - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Miền Tây - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Miền Tây - SJC 79.000 ▲200K 81.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 ▲300K 69.200 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 ▲220K 52.050 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 ▲170K 40.630 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 ▲130K 28.940 ▲130K
Cập nhật: 28/03/2024 20:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 ▲30K 6,990 ▲30K
Trang sức 99.9 6,825 ▲30K 6,980 ▲30K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NL 99.99 6,830 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Nghệ An 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Hà Nội 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Cập nhật: 28/03/2024 20:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 ▲100K 81,000 ▲100K
SJC 5c 79,000 ▲100K 81,020 ▲100K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 ▲100K 81,030 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 ▲250K 69,750 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 ▲250K 69,850 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 68,400 ▲250K 69,250 ▲300K
Nữ Trang 99% 67,064 ▲297K 68,564 ▲297K
Nữ Trang 68% 45,245 ▲204K 47,245 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 27,030 ▲125K 29,030 ▲125K
Cập nhật: 28/03/2024 20:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 28/03/2024 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,821 15,841 16,441
CAD 17,969 17,979 18,679
CHF 26,931 26,951 27,901
CNY - 3,362 3,502
DKK - 3,505 3,675
EUR #25,949 26,159 27,449
GBP 30,796 30,806 31,976
HKD 3,040 3,050 3,245
JPY 159.85 160 169.55
KRW 16.18 16.38 20.18
LAK - 0.68 1.38
NOK - 2,213 2,333
NZD 14,556 14,566 15,146
SEK - 2,251 2,386
SGD 17,820 17,830 18,630
THB 627.62 667.62 695.62
USD #24,555 24,595 25,015
Cập nhật: 28/03/2024 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 28/03/2024 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/03/2024 20:45