Đó là cái bình thủy, bình trà trang trí hình ông già ngồi câu cá, là bàn ủi than con gà, ngoáy trầu bằng vỏ đạn đồng, chiếc tivi trắng đen, cái radio... Mỗi vật dụng đều gợi nhớ kỷ niệm, làm cho một thế hệ người già bồi hồi.
Những vật dụng tưởng chừng như bình thường ngày ấy, ngày nay gần như đã trở thành cổ vật, không còn nhiều người lưu giữ. Một số "dân chơi", đa phần là người trẻ đi săn lùng, mua với giá đắt đỏ.
|
Vật dụng đầu tiên, phải kể là chiếc bàn ủi con gà, khi đất nước chưa phủ điện khắp mọi hang cùng ngõ hẹp như bây giờ. Mỗi lần ủi đồ, người ta phải nhóm than hồng, quạt xành xạch, rất lâu lắt. Con gà trống ngay đầu bàn ủi, chính là cái khóa nắp. Dùng loại bàn ủi này, phải cẩn thận vì khó điều chỉnh được sức nóng, dễ làm cháy đồ. Đôi khi con gà trống tự... nghiêng mình, nắp bàn ủi bật ra, than hồng rớt xuống quần áo. |
|
Chiếc quạt mo dùng để phe phẩy than hồng bàn ủi, cũng là vật làm mát trong những buổi trưa hè nóng nực. |
|
Mỗi lần làm bánh, người ta ngâm gạo từ đêm khuya cho đến tận sáng, cho gạo mềm. Sau đó hì hục, dùng sức xoay cối đá để xay gạo thành bột. Xay bột thường có hai người: người ngồi xay, người kia ngồi bên cạnh, liên tục dùng muỗng múc gạo bỏ vào cối. |
|
Muỗng nhôm dùng để chan canh ngày xưa |
|
Tô, chén bằng đất nung. Ở quê, các lão bà quý chén bát. Vì vậy, thường hay dùng sơn đánh ký hiệu riêng cho tô, chén nhà mình, tránh nhầm lẫn với tô, chén nhà hàng xóm |
|
Tủ chén của vài chục năm về trước |
|
Bình trà gợi nhớ nhiều kỷ niệm hàng xóm quây quần bên nhau |
|
Uống trà thì không thể thiếu chiếc bình thủy chứa sẵn nước sôi. Gia chủ không phải mất thời gian đi nấu mỗi khi khách đến chơi |
|
Chiếc mâm nhôm gợi nhớ những bữa cơm đạm bạc ít thịt, nhiều rau |
|
Nồi gang dùng để nấu cơm |
|
Cơm nấu bằng cà ràng, đốt củi. Người ta phải canh hột gạo nở tới, chắt nước cơm. Không như nấu nồi cơm điện như bây giờ, khỏi chắt nước. Nước cơm thay canh, hoặc dùng trộn cơm, chan tý nước cá vào để nuôi chó. Dưới đít nồi thường có một lớp cơm cháy vàng ươm, thơm, giòn. |
|
Ca uống nước bằng i-nốc, di vật từ thời chiến tranh cũng là vật thường thấy trong mọi gia đình ngày trước |
|
Cái ngoáy trầu bằng vỏ đạn đồng của các cụ già xưa |
|
Thời đó, nhà khá giả mới sở hữu đèn măng xông. Người ta chỉ lấy ra dùng khi nhà có đám tiệc. Nhà có đám, ánh đèn măng-xông sáng choang suốt đêm. Hàng xóm xúm lại phụ giết heo, gà... Tếng dao thớt lụp bụp. Khi trời sáng, thức ăn đã hoàn tất, bày ra mâm đãi khách. |
|
Chiếc đèn pin bằng nhôm, gần như nhà nào cũng có |
|
Chiếc đèn dầu huyền thoại thời điện chưa phủ khắp nước |
|
Lược dầy dùng để chải chí trên tóc, lúc dầu gội đầu còn khan hiếm. Những buổi trưa, các dì các mợ ngồi bắt chí cho con cháu, dùng lược này. Mâm nhôm bày ra, tóc búi rũ xuống, lược dầy chải cho chí mén, chí đực đen thui rớt vào mâm. Người ta dùng ngón tay cái đè lên mâm, giết chí nghe "rôm rốp". |
|
Lu chứa nước mưa bên hiên mái nhà tranh |
|
Bộ ván ngựa lên nước bóng lưỡng, nằm mát da thịt hiện diện trong các gia đình quê thời đó |
|
Về giải trí, người ta chỉ có chiếc radio nghe đài chạy bằng pin thế này |
|
Khá hơn một chút, chiếc catsette xuất hiện trong một số ít nhà |
|
Chiếc băng cassette này có tuổi đời cũng ít nhất 30 năm |
|
Và tivi trắng đen cũng bắt đầu xuất hiện. Chỉ những nhà giàu mới sắm nổi |
|
Bếp dầu bắt đầu thay dần bếp củi |
|
Món cà rem đậu xanh đầy đường hóa học, món khoái khẩu của trẻ em cách đây vài chục năm. Tiếng leng keng vẫn còn nằm trong ký ức một số người bây giờ không còn trẻ |
|
Món kẹo kéo đầy hấp dẫn thường được bán ở trước các trường học |
|
Những chiếc xe lam chất đầy người, chực như muốn nhỏng mũi. Ông tài xế ở phía trước đạp máy xành xạch.... máy nổ ầm ầm. Phía sau, anh lơ xe áo vá chằng chịt, đeo phía sau đuôi , nhường chỗ ngồi cho khách. Đó là hình ảnh thường thấy trên đường phố |
|
Xe đò chạy như rùa bò bằng than đá, khói đen bốc mịt mù, vài chục cây số phải ghé trạm đổ nước cho nguội máy... Đây phương tiện đi lại chính thời đó. Ván lót sàn xe sơ sài, nhiều khe hở, khách có thể nhìn xuống thấy mặt đường đang chuyển động. Lơ xe đứng ngay cửa lên xuống hò hét "dô dô", thích chọc ghẹo các cô gái trẻ. |
|
Mỗi lần trong xóm có đám cưới, con nít xúm lại xem cô dâu, chú rể,. Chúng vỗ tay hát: "Cô dâu chú rể làm bể bình bông, đổ thừa con nít, bị đòn nát đít". Đám cưới xưa, người ta trang hoàng nhà đãi bằng cây đủng đỉnh, lá dừa... rất đẹp mắt. Rước cô dâu vừa về đến cổng, pháo nổ ì đùng, mùi pháo vương vấn, xác đỏ tươi... | |
|
Gói bánh tét làm đám giỗ ở miền Tây Nam Bộ, phong tục này vẫn còn giữ trong nhiều gia đình. Ngày xưa, mỗi lần đi đám giỗ, người ta mang theo cái tráp. Trong tráp có nhiều bánh trái khách mang đến cúng người đã khuất. Khi tàn tiệc, gia chủ lấy hết đồ khách mang đến ra và ý nhị, kín đáo bỏ trở lại vào tráp nắm xôi, đòn bánh tét, bịch chè...cho khách mang về, gọi là "lại quả". |
Lê Ngọc Dương Cầm