Ngân hàng thương mại nhà nước… đang khát vốn (bài 2)
Khách hàng giao dịch tại VietinBank. |
Trao đổi với báo chí ngày 13/6, đại diện Trung tâm nghiên cứu của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cho hay, hiện nay, hệ số an toàn vốn CAR của các ngân hàng thương mại nhà nước hiện ở mức rất thấp, chỉ đạt 9,4% – gần chạm ngưỡng tối thiểu 9% theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và thấp hơn mức bình quân của ASEAN là 10,3%.
Áp lực tăng vốn của các ngân hàng thương mại nhà nước vì thế là rất lớn. Tuy nhiên, theo Trung tâm nghiên cứu BIDV thì việc thực hiện tăng vốn này lại đang gặp không ít khó khăn, thách thức. Cụ thể:
Về tăng vốn từ giải pháp giảm chi trả cổ tức: Trong giai đoạn 2013 – 2014, theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước toàn bộ cổ tức của ngân hàng thương mại nhà nước không được sử dụng để gia tăng năng lực tài chính của ngân hàng phải chuyển nộp về ngân sách nhà nước. Trong điều kiện các giải pháp tăng vốn khác chưa thực hiện được ngay thì việc tăng vốn từ nguồn lợi nhuận tạo ra của năm 2015 và 2016 là giải pháp thuận lợi nhất cho các ngân hàng.
Tuy nhiên giải pháp này đang gặp vướng mắc từ cơ quan quản lý Nhà nước là Bộ Tài chính và nếu xảy ra, có vẻ như vai trò cổ đông của nhà nước tại các ngân hàng thương mại nhà nước đang chưa thực sự chuyên nghiệp và điều này có thể ảnh hưởng đến cổ đông hiện hữu khác cũng như việc thu hút cổ đông mới trong tương lai. Ở khía cạnh khác, dường như các ngân hàng thương mại nhà nước ngoài chức năng thực hiện chính sách tiền tệ vốn đã rất nặng nề đang phải gánh thêm áp lực từ chính sách tài khóa.
Tăng vốn từ phát hành thêm cổ phần cho nhà đầu tư hiện hữu, thu hút thêm nhà đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài: Đây là giải pháp không dễ dàng thực hiện ngay trong ngắn hạn và sự thành công của giải pháp còn phụ thuộc vào 2 yếu tố là mức độ quan tâm của nhà đầu tư và điều kiện thị trường. Hiện nay cả 2 yếu tố này đều không thuận lợi cho các ngân hàng thương mại nhà nước.
Đối với yếu tố thứ nhất, hiện nay tâm lý chung của hầu hết các nhà đầu tư đều đánh giá việc đầu tư vào các ngân hàng thương mại nhà nước là khá rủi ro do năng lực tài chính hạn chế.
Đối với yếu tố thị trường, hiện nay ngồn vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán chưa thực sự tốt, việc thu hút nguồn vốn từ nước ngoài cũng khó khăn do xu hướng chung dòng vốn đầu tư quốc tế đang trở lại Mỹ, và ngay cả khi lựa chọn được nhà đầu tư để tăng vốn thì các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn còn gặp phải nhiều rào cản.
Tình huống hiện nay tương tự như các NHTM Hàn Quốc năm 1997-1998 như đã phân tích ở trên.
Tăng vốn từ giải pháp thực hiện tiết kiệm chi phí quản lý, mở rộng các nguồn thu ngoài lãi: Giải pháp này chỉ bù đắp được một phần nhỏ nhu cầu tăng vốn.
Tăng vốn từ nguồn bổ sung ngân sách nhà nước: Đây là giải pháp cơ bản nhất, phù hợp nhất trong tình hình hiện nay theo kinh nghiệm các nước trên thế giới (như đã trình bày ở trên) và cũng đã được Ngân hàng Nhà nước cam kết xem xét để thực hiện. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có kết quả. Nguyên nhân cơ bản vẫn là điều kiện ngân sách hiện nay đang eo hẹp và không cho phép thực hiện.
Tăng vốn từ việc tăng khả năng sinh lời và thực hiện điều chỉnh cơ cấu bảng tổng kết tài sản giúp giảm tài sản có rủi ro: Cả 2 giải pháp này đều không khả thi đối với các ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay do phải thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đất nước khiến việc cấu trúc lại tài sản có rủi ro hay tăng lãi suất là không thực hiện được.
Cũng theo Trung tâm nghiên cứu BIDV thì áp lực tăng vốn của các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam hiện nay có nhiều đặc điểm giống các NHTM tại Hàn Quốc sau khủng hoảng 1997. Khi khủng hoảng tài chính 1997 xẩy ra và qua đi, nền kinh tế Hàn Quốc đứng trước áp dụng cải tổ mạnh mẽ và trong đó có cả ngành ngân hàng. Để nâng cao năng lực tài chính cho các ngân hàng thương mại nhà nước, Hàn Quốc xác định việc tăng vốn cho các ngân hàng từ nguồn ngân sách nhà nước là không thể tránh khỏi do bất ổn trong hệ thống tài chính có thể châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng trong toàn nền kinh tế và thực tế là NHTM Hàn quốc khi đó rất khó để có thể tự thực hiện tăng vốn từ phát hành thêm cổ phần. Kết quả vào cuối năm 1998, Hàn quốc đã bơm tổng cộng 64 ngản tỷ Won (tương đương khoảng 15% GDP) để tái cơ cấu hệ thống tài chính, trong đó ½ lượng vốn này dùng để thực hiện tăng vốn cho các ngân hàng. Mục tiêu tăng vốn cho các NHTM Hàn Quốc được xác định là đưa CAR lên mức 10%.
Bên cạnh trường hợp của Hàn Quốc, trường hợp của Mỹ trong khủng hoảng 2008-2009 cũng rất đáng xem xét. Cụ thể trong năm 2008-2009, hàng loạt các ngân hàng đầu tư, công ty bảo hiểm... của Mỹ rơi vào khủng hoảng và đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Khi đó Chính phủ Mỹ đã thực hiện các biện pháp để đối phó trong đó có việc giúp các ngân hàng yếu kém tìm kiếm đối tác để thực hiện sáp nhập. Thường, Chính phủ phải đứng ra xử lý các khoản nợ xấu và bảo lãnh (nếu có thua lỗ trong tương lai) sau khi các ngân hàng mạnh chịu thực hiện sáp nhập các ngân hàng yếu kém. Ví như tháng 3/2008, FED đã phải hỗ trợ 30 tỷ USD cho việc JP Morgan Chase mua lại Bear Stearns để tránh khỏi phá sản; tương tự vào tháng 9/2008 Fed cũng phải cho AIG vay 85 tỷ USD trong vòng 2 năm để cứu tập đoàn này khỏi phá sản. Đổi lại Chính phủ Mỹ sẽ nắm giữ 79,9% cổ phần của AIG và thay đổi ban lãnh đạo của tập đoàn này.
Trong cả 2 trường hợp này, nguồn vốn để hỗ trợ tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM gặp khó khăn đều từ ngân sách nhà nước. Nguồn vốn này một mặt giúp các NHTM bị ảnh hưởng nhanh chóng khôi phục lại hoạt động, mặt khác làm nền tảng giúp các NHTM tiếp tục triển khai các biện pháp tăng vốn khác.
Đưa ra các phân tích và dẫn chứng như trên, Trung tâm nghiên cứu BIDV chỉ ra ra rằng, để nâng CAR, giải pháp tăng vốn từ nguồn lợi nhuận để lại được sử dụng là chính.
Minh Ngọc
-
Big Oil quay đầu với chuyển đổi năng lượng?
-
"An toàn lao động là quan tâm hàng đầu của chúng tôi!"
-
Tin tức kinh tế ngày 28/3: Gần 74.000 doanh nghiệp rút khỏi thị trường trong quý I
-
Phê duyệt 14 ngân hàng quan trọng nhất hệ thống năm 2024
-
Đề xuất Quốc hội cho phép thi hành Luật Đất đai từ ngày 1/7/2024