Năng suất lao động giúp nền kinh tế tăng sức cạnh tranh

09:36 | 20/08/2019

1,369 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam đang được đánh giá là rất thấp, bị bỏ xa sau các nước trong khu vực, nhất là so với Singapore. Tính theo sức mua tương đương thì người dân quốc đảo sư tử mỗi năm làm ra 3,5 tỉ đồng trong khi người Việt chỉ làm ra 256 triệu đồng. Phải chăng là do người Việt lười lao động hay vì nguyên nhân nào khác? Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê về vấn đề này.

PV: Được đánh giá là tốc độ tăng cao nhưng so với các nước trong khu vực, NSLĐ của Việt Nam lại rất thấp. Thực tế điều này như thế nào, thưa ông?

nang suat lao dong giup nen kinh te tang suc canh tranh
Năng suất lao động giúp nền kinh tế tăng sức cạnh tranh

Ông Nguyễn Bích Lâm: Trước khi đề cập cụ thể đến điều này, tôi muốn nhấn mạnh, NSLĐ xã hội là một chỉ tiêu thuộc Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia (quy định trong Luật Thống kê), được tính bằng GDP bình quân trên một lao động đang làm việc trong năm. Cách tính này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Với cách tính như vậy, thời gian qua, NSLĐ của Việt Nam tiếp tục cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN. Cụ thể, với mức tăng trưởng kinh tế năm 2018 đạt 7,08%, NSLĐ toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước tính đạt 102,2 triệu đồng/lao động (tương đương 4.521 USD/lao động); tính theo giá so sánh, tăng 6% so với năm 2017. Bình quân giai đoạn 2016-2018, NSLĐ tăng 5,77%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015. Tính chung giai đoạn 2011-2018, NSLĐ tăng bình quân 4,88%/năm.

Có thể nói, NSLĐ ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Nếu như trong giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng GDP bình quân đạt 5,91%/năm, trong đó lao động tăng 1,5%/năm; tăng NSLĐ đạt 4,35%/năm, thì trong 3 năm 2016-2018, mặc dù lao động chỉ tăng 0,88%/năm nhưng NSLĐ đạt tốc độ tăng bình quân 5,77%/năm, cao hơn giai đoạn trước 1,42 điểm phần trăm nên GDP tăng trưởng bình quân đạt tốc độ 6,7%/năm. Tính theo sức mua tương đương (PPP 2011), NSLĐ của Việt Nam giai đoạn 2011-2018 tăng bình quân 4,8%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của nhiều nước trong khu vực. Nhờ đó, Việt Nam đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với các nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn. Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực, đáng chú ý là khoảng cách chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn trong thời gian tới để có thể bắt kịp mức NSLĐ của các nước.

nang suat lao dong giup nen kinh te tang suc canh tranh
Lao động làm các công việc giản đơn, giá trị gia tăng thấp thì tạo ra năng suất thấp

PV: Cụ thể, khoảng cách NSLĐ của Việt Nam với các nước trong khu vực như thế nào thưa ông?

Ông Nguyễn Bích Lâm: Tính chung giai đoạn 2008-2017, NSLĐ theo sức mua tương đương năm 2011 (PPP 2011) của Việt Nam tăng trung bình 4%/năm, cao hơn Singapore (0,9%/năm), Malaysia (1,1%/năm), Thái Lan (2,6%/năm), Philippines (3,3%/năm), Indonesia (3,4%/năm). Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực. Cụ thể, tính theo PPP 2011, NSLĐ của Việt Nam năm 2017 đạt 10.232 USD, chỉ bằng 7,2% của Singapore; 18,4% của Malaysia; 36,2% của Thái Lan; 43% của Indonesia và bằng 55% của Philippines. Đáng chú ý là, chênh lệch về mức NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát động phong trào “Năng suất lao động quốc gia” và nhấn mạnh: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ luôn đồng hành và mong muốn cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, nhà đầu tư và các tầng lớp hãy nỗ lực, cố gắng hơn nữa, chủ động tham gia, tích cực thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp để tăng năng suất lao động, kề vai sát cánh, chung sức đồng lòng, cùng nhau tạo nên một cuộc bứt phá mới trong NSLĐ để đưa đất nước Việt Nam vượt lên, phát triển nhanh và bền vững”.

PV: Với sự chênh lệch về mức NSLĐ so với các nước trong khu vực như vậy, theo ông nguyên nhân có phải do người Việt lười lao động như nhận định của một số ý kiến?

Ông Nguyễn Bích Lâm: Không phải do người Việt lười lao động mà dẫn đến NSLĐ thấp. Để phân tích nguyên nhân, phải phân tích trong bối cảnh chung của nền kinh tế. Theo phân tích của chúng tôi có tất cả 8 nguyên nhân làm cho NSLĐ của người Việt thấp. Trong đó phải nói đến quy mô của nền kinh tế còn nhỏ, xuất phát điểm thấp, máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, năng lực quản lý, quản trị doanh nghiệp yếu…

Tuy nhiên, nguyên nhân lớn nhất làm NSLĐ nói chung thấp là do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở nước ta chưa đủ mạnh để thu hẹp khoảng cách tuyệt đối về giá trị NSLĐ so với các nước trong khu vực. Không thể phủ nhận quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ở nước ta diễn ra nhanh, nhưng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản hiện nay còn lớn.

Cụ thể, đến năm 2018, nước ta vẫn còn tới 20,5 triệu lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Hay thống kê 6 tháng đầu năm 2019 cho thấy, lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc là 54,3 triệu người, trong đó lao động làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản dù giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn chiếm 35,3% tổng số lao động trong toàn nền kinh tế. Trong khi đó, lao động làm việc ở khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 28,9% (tăng 2,3%). Số lao động làm việc trong khu vực dịch vụ, nhất là những ngành dịch vụ mang tính chất động lực hay huyết mạch của nền kinh tế, như tài chính, ngân hàng, du lịch… có NSLĐ cao mới chỉ chiếm 35,8% và chỉ tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2018. NSLĐ của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ bằng 38,9% mức NSLĐ chung của nền kinh tế; bằng 30,4% khu vực công nghiệp, xây dựng và bằng 33,7% các ngành dịch vụ, do đa số lao động trong khu vực này làm các công việc giản đơn, có tính thời vụ, không ổn định, nên giá trị gia tăng tạo ra thấp, dẫn đến năng suất thấp, kéo toàn bộ NSLĐ chung của toàn ngành kinh tế xuống. Và đây cũng là nguyên nhân chính đã làm cho NSLĐ của Việt Nam rất thấp so với các nước trong khu vực mà tôi muốn nói đến.

nang suat lao dong giup nen kinh te tang suc canh tranh

PV: Với nguyên nhân chính là chuyển dịch cơ cấu lao động như vậy, ông có thể cho biết làm thế nào để khắc phục, nâng cao NSLĐ, đẩy mạnh phát triển kinh tế?

Ông Nguyễn Bích Lâm: Theo tôi, sự dịch chuyển lao động từ nông thôn sang thành thị; từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ; từ khu vực phi chính thức sang chính thức vẫn tiếp tục diễn ra như nhiều quốc gia phát triển ở mức thấp. Và hiện nay, nước ta vẫn còn dư địa để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu nhằm tăng NSLĐ. Tuy nhiên, xu hướng này không thể kéo dài khi Việt Nam phát triển lên mức cao hơn, thu nhập ở khu vực nông thôn gia tăng, cơ cấu kinh tế ổn định sẽ làm giảm đáng kể dư địa cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động. Như vậy lại làm mức tăng NSLĐ hạn chế. Do đó, để thu hẹp về NSLĐ so với các nước, Việt Nam cần phải nâng cao NSLĐ trong khu vực doanh nghiệp, tức là tăng năng suất nội ngành, thay vì tăng năng suất qua chuyển dịch cơ cấu lao động. Nâng cao NSLĐ nội ngành là xu hướng mới và phổ biến ở các nền kinh tế tiên tiến, vì tăng năng suất nội ngành đóng vai trò chủ đạo trong việc tăng năng suất của nền kinh tế.

PV: Nhưng trong hoàn cảnh xuất phát điểm thấp, quy mô doanh nghiệp quá nhỏ, máy móc, trang thiết bị, công nghệ lạc hậu… thì theo ông làm như thế nào để tăng năng suất nội ngành?

Ông Nguyễn Bích Lâm: Đây thực sự là một thách thức trong phát triển kinh tế nói chung, cũng như tăng NSLĐ nói riêng. Vì đối với một quốc gia, tăng trưởng GDP nếu chỉ dựa trên tăng việc làm giản đơn, trình độ công nghệ và tay nghề lao động thấp thì thường không cao và thiếu bền vững. Tự do hóa thương mại và cách mạng công nghiệp 4.0 vừa là cơ hội để Việt Nam thu hẹp khoảng cách NSLĐ với các nước, nhưng cũng đưa đến nguy cơ “dễ bị bỏ lại xa hơn” so với các quốc gia trên thế giới, nếu không có định hướng phát triển đúng và giải pháp hiệu quả. Tôi cho rằng, muốn tăng NSLĐ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thay vì kinh tế tăng trưởng phụ thuộc vào thâm dụng lao động, vốn, tài nguyên, trước mắt, Chính phủ sớm thành lập Ủy ban Năng suất Quốc gia, trong đó thiết lập một cơ quan thường trực, chuyên sâu về NSLĐ có nhiệm vụ phối hợp các động lực NSLĐ của Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… đã thực hiện.

nang suat lao dong giup nen kinh te tang suc canh tranh

Ngoài ra, xây dựng và thực hiện thành công chiến lược quốc gia về nâng cao NSLĐ với mục tiêu chung và cụ thể trong từng giai đoạn; phát động phong trào tăng năng suất trong tất cả các khu vực của nền kinh tế, trong đó chọn một số lĩnh vực sử dụng nhiều lao động như may mặc, sản xuất máy móc thiết bị, điện tử… và một số địa phương thực hiện thí điểm, từ đó nhân rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Cùng với các chính sách trên, Việt Nam phải tiếp tục ban hành và thực thi các giải pháp mang tính đột phá, tạo áp lực để các tổ chức kinh tế tiếp cận, ứng dụng công nghệ, từng bước nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo trong hoạt động sản xuất - kinh doanh; đặt doanh nghiệp vào vị trí trung tâm của các chính sách đổi mới, tạo môi trường chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực công nghệ cho doanh nghiệp nhằm tăng NSLĐ với các sản phẩm mới, công nghệ cao; có giải pháp khuyến khích doanh nghiệp sắp xếp lại để có quy mô lao động tối ưu (từ 100 đến 299 lao động, doanh nghiệp) nhằm đạt được NSLĐ cao nhất.

Bên cạnh đó, Việt Nam phải tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi về đất đai, ưu đãi về thuế, tín dụng... với doanh nghiệp sử dụng dây chuyền công nghệ cao, hiện đại; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; khuyến khích, tạo thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và đội ngũ doanh nhân…

PV: Cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!

nang suat lao dong giup nen kinh te tang suc canh tranh
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: Phải lấy doanh nghiệp làm trung tâm, đối tượng của chính sách

Mặc dù tốc độ NSLĐ tăng nhanh, nhưng xét ở khía cạnh giá trị, so sánh với các nước trong khu vực, NSLĐ của nước ta vẫn ở mức thấp. Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn trong thời gian tới để có thể bắt kịp mức NSLĐ của các nước. Theo đó, hơn bao giờ hết, việc cải thiện NSLĐ của nước ta là nhiệm vụ cốt lõi, cấp thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng, ý nghĩa sống còn nhằm thúc đẩy tăng trưởng, vượt qua bẫy thu nhập trung bình, tránh tụt hậu, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trên thế giới.

Theo kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, phát triển khoa học và công nghệ có tác động quan trọng tới nâng cao NSLĐ. Sự phát triển thành công của các nước Đông Á đều dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, điển hình như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc... đều là các quốc gia có đầu tư rất lớn vào vấn đề năng suất quốc gia, thông qua việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch tổng thể năng suất quốc gia, phù hợp với xu hướng quốc tế và bối cảnh của mỗi nước.

Cần có sự vào cuộc và nỗ lực vượt bậc của toàn hệ thống chính trị, huy động tổng lực các cơ quan Trung ương thuộc các ngành, lĩnh vực, các ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc xây dựng và thực thi quyết liệt các giải pháp tăng NSLĐ, coi đây là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong việc thực hiện chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới. Tập trung các giải pháp ở tầm vĩ mô, đẩy nhanh hơn nữa tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh, thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách, khuyến khích phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có tri thức, có tay nghề, phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý công nghệ, quản trị doanh nghiệp... Trong đó, mục tiêu chủ yếu của các thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách vĩ mô, ngành, lĩnh vực phải lấy doanh nghiệp làm trung tâm, là đối tượng tác động chủ yếu của chính sách.

Việc sớm thành lập Ủy ban Năng suất Quốc gia là rất cần thiết, trong đó, hình thành bộ máy, cơ quan chuyên sâu về NSLĐ thực hiện nhiệm vụ điều phối, phối hợp các động lực tăng năng suất quốc gia của Việt Nam. Đồng thời, khẩn trương xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao NSLĐ của Việt Nam với mục tiêu chung và cụ thể trong từng giai đoạn để NSLĐ của Việt Nam bắt kịp các nước trong khu vực. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống, trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, tạo áp lực cạnh tranh trong môi trường kinh doanh để thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng công nghệ, tăng NSLĐ.

Khu vực doanh nghiệp chiếm vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nâng cao NSLĐ khu vực doanh nghiệp đóng vai trò quyết định tới việc nâng cao NSLĐ của toàn bộ nền kinh tế. Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh sự chủ động trong các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp hướng tới mục tiêu nâng cao NSLĐ, thúc đẩy các sáng kiến kinh doanh, ứng dụng các mô hình quản trị doanh nghiệp tốt, hiện đại, nhất là các doanh nghiệp nhà nước, tăng cường liên kết, hợp tác phát triển giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Doanh nghiệp cần xác định chiến lược kinh doanh phù hợp, phát triển những sản phẩm mới có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao; tập trung đầu tư nâng cao năng lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất, quản trị doanh nghiệp để nâng cao NSLĐ và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp; sử dụng sức lao động hiệu quả chính là một trong những giải pháp tối ưu để nâng cao NSLĐ…

Đối với người lao động, cần tăng cường trau dồi kiến thức, tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp, mỗi một người lao động cần phải trở thành hạt nhân của đổi mới sáng tạo, phát huy sáng kiến, cần cù, chịu khó trong công việc, vừa khẳng định được năng lực cá nhân, tăng năng suất, tăng thu nhập, vừa khẳng định được giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong thời đại mới

Nguyễn Anh