Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính Nguyễn Đức Độ:

Lạm phát năm 2019 chắc chắn sẽ thấp hơn cả năm 2018

17:34 | 09/01/2019

549 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm 2019 dưới 4% mà Chính phủ đã đề ra tại cuộc họp cuối năm 2018 theo Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính Nguyễn Đức Độ sẽ đạt được. Vì sao lại đạt được? Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Đức Độ về vấn đề này.  
pho vien truong vien kinh te tai chinh nguyen duc do lam phat nam 2019 chac chan se thap hon ca nam 2018Phó Thủ tướng: Điều hành giá đúng “kịch bản”, lạm phát được kiểm soát tốt!
pho vien truong vien kinh te tai chinh nguyen duc do lam phat nam 2019 chac chan se thap hon ca nam 2018Kiểm soát tăng giá tiêu dùng dưới 4%
pho vien truong vien kinh te tai chinh nguyen duc do lam phat nam 2019 chac chan se thap hon ca nam 2018Rủi ro lớn nhất đối với kiểm soát lạm phát cuối năm 2018 là gì?
pho vien truong vien kinh te tai chinh nguyen duc do lam phat nam 2019 chac chan se thap hon ca nam 2018
Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính Nguyễn Đức Độ

P.V: Thưa ông, năm 2018 được coi là một năm thành công về kiểm soát lạm phát. Là một chuyên gia kinh tế, ông có thể khái quát vấn đề này?

Ông Nguyễn Đức Độ: Theo các con số mà Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố, CPI bình quân năm 2018 tăng 3,54% so với năm 2017 và tăng 2,98% so với tháng 12/2017. Như vậy, mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ CPI bình quân năm 2018 dưới 4% đã đạt được trong bối cảnh điều chỉnh được gần hết giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý đặt ra trong năm 2018. Do vậy, năm 2018 được coi là năm thành công trong việc kiểm soát lạm phát.

P.V: Với kiểm soát lạm phát năm 2018 dưới 4% như vậy, theo ông trong bối cảnh kinh tế toàn cầu năm 2019 được dự báo có nhiều biến động do chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, tình hình chính trị phức tạp… liệu lạm phát năm 2019 có thể kiểm soát để đạt dưới 4% như Chính phủ đề ra không?

Ông Nguyễn Đức Độ: Với việc giá dầu giảm mạnh, lạm phát tháng 12/2018 so với cùng kỳ năm trước chỉ còn ở mức 2,98%, giảm mạnh so với mức 3,89% trong tháng 10/2018. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc bảo đảm kiềm chế lạm phát dưới 4% trong năm 2019. Bởi mức khởi điểm của lạm phát trong tháng đầu năm 2019 nhiều khả năng cũng sẽ ở mức dưới 3% sau khi Liên Bộ Tài chính - Công Thương quyết định điều chỉnh giảm giá xăng dầu khoảng 500 đồng/lít. Mức lạm phát thấp so với cùng kỳ của tháng đầu năm 2019 sẽ có tác động tích cực đến lạm phát cùng kỳ của tất cả các tháng trong năm cũng như lạm phát trung bình của cả năm 2019.

P.V: Như vậy có thể hiểu việc giá dầu giảm mạnh là căn nguyên giúp kiềm chế lạm phát đạt chỉ số như mục tiêu đề ra của Chính phủ phải không thưa ông?

Ông Nguyễn Đức Độ: Trên thực tế, việc kiềm chế lạm phát năm 2019 không chỉ thuận lợi do giá dầu giảm mà còn do nhiều yếu tố khác nữa. Trước tiên, theo tôi giá thịt lợn sau khi đã đạt mức trên 50.000 đồng/kg (thuộc hàng cao nhất thế giới) đã chững lại. Nếu tăng giá cao hơn nữa sẽ khiến cho nguồn cung tăng mạnh (nhập khẩu thịt lợn tăng, bà con nông dân tái đàn) từ đó kéo giá xuống. Do đó, giá thịt lợn năm 2019 nhiều khả năng sẽ không tăng hoặc giảm, tức là đóng góp của giá thịt lợn vào lạm phát năm 2019 sẽ bằng 0 hoặc âm.

pho vien truong vien kinh te tai chinh nguyen duc do lam phat nam 2019 chac chan se thap hon ca nam 2018
Giá dầu giảm là yếu tố thuận lợi kiềm chế lạm phát

Yếu tố thuận lợi thứ hai là áp lực đối với tỷ giá trong năm 2019 được dự báo sẽ thấp hơn so với năm 2018 bởi kinh tế Mỹ được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại và lộ trình tăng lãi suất của FED cũng đang ở giai đoạn cuối, dẫn đến nhu cầu đối với đồng đô la không còn mạnh như trước.

Yếu tố thứ ba cũng cần nói đến là căng thẳng thương mại Mỹ - Trung đang có chiều hướng dịu bớt. Khi cả kinh tế Mỹ và Trung Quốc cùng được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại trong năm sau, việc gia tăng căng thẳng trong quan hệ thương mại giữa hai nước sẽ không có lợi cho bất kỳ ai, kể cả bên thứ ba là các nước còn lại. Điều này sẽ khiến cho tỷ giá đồng nhân dân tệ ổn định hơn trong năm 2019.

Như vậy, có thể tựu chung lại 3 yếu tố sẽ khiến cho lạm phát những tháng đầu năm 2018 tăng mạnh là giá dầu, giá thịt lợn và tỷ giá đều được dự báo sẽ giảm hoặc ổn định hơn trong năm 2019 sẽ dẫn đến nhiều khả năng lạm phát trong năm 2019 sẽ thấp hơn lạm phát trong năm 2018.

P.V: Theo ông nếu lạm phát trong năm 2019 mức trung bình, thấp, cao thì kịch bản sẽ diễn ra như thế nào?

Ông Nguyễn Đức Độ: Kịch bản trung bình là lạm phát sẽ tăng khoảng 0,14%/tháng (chưa tính điều chỉnh giá điện, giá dịch vụ y tế và giáo dục), tương đương với mức tăng của lạm phát cơ bản trong năm 2018. Với mức tăng này, lạm phát cùng kỳ tháng 12/2019 sẽ ở mức khoảng 1,7% và lạm phát trung bình sẽ chỉ ở mức trên 2%. Tuy nhiên, do Chính phủ sẽ điều chỉnh giá dịch vụ theo lộ trình nên lạm phát trung bình sẽ cao hơn nhưng khả năng chỉ ở mức khoảng 3%.

Kịch bản lạm phát thấp thì giá dầu tiếp tục giảm và tỷ giá VNĐ/USD chỉ tăng 1%, lạm phát cùng kỳ của tháng 12/2019 có thể chỉ ở mức 1% và lạm phát trung bình cả năm 2019 chỉ ở mức 2,5%.

Còn kịch bản lạm phát cao, giá xăng dầu tăng mạnh trở lại và tỷ giá có mức tăng tương đương với mức của năm 2018, đồng thời Chính phủ vẫn điều chỉnh giá dịch vụ theo lộ trình, lạm phát trung bình cả năm 2019 sẽ vẫn thấp hơn mức 3,54% của năm 2018.

P.V: Như vậy có thể hiểu dù ở mức nào thì lạm phát của cả năm 2019 vẫn kiểm soát được dưới 4% đúng không thưa ông?

Ông Nguyễn Đức Độ: Đúng vậy. Về tổng thể có thể nhận định mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 4% trong năm 2019 gần như chắc chắn đạt được.

P.V: Cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!

Tú Anh

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 81,000
AVPL/SJC HCM 79,000 81,000
AVPL/SJC ĐN 79,000 81,000
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 69,450
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 69,350
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 81,000
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 69.800
TPHCM - SJC 79.100 81.100
Hà Nội - PNJ 68.500 69.800
Hà Nội - SJC 79.100 81.100
Đà Nẵng - PNJ 68.500 69.800
Đà Nẵng - SJC 79.100 81.100
Miền Tây - PNJ 68.500 69.800
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 69.800
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 69.200
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 52.050
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 40.630
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 28.940
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 6,990
Trang sức 99.9 6,825 6,980
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 7,020
NL 99.99 6,830
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830
Miếng SJC Thái Bình 7,930 8,115
Miếng SJC Nghệ An 7,930 8,115
Miếng SJC Hà Nội 7,930 8,115
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 69,750
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 69,850
Nữ Trang 99.99% 68,400 69,250
Nữ Trang 99% 67,064 68,564
Nữ Trang 68% 45,245 47,245
Nữ Trang 41.7% 27,030 29,030
Cập nhật: 29/03/2024 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,853 15,873 16,473
CAD 18,010 18,020 18,720
CHF 27,004 27,024 27,974
CNY - 3,362 3,502
DKK - 3,501 3,671
EUR #25,924 26,134 27,424
GBP 30,761 30,771 31,941
HKD 3,040 3,050 3,245
JPY 159.69 159.84 169.39
KRW 16.18 16.38 20.18
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,206 2,326
NZD 14,575 14,585 15,165
SEK - 2,244 2,379
SGD 17,817 17,827 18,627
THB 627.99 667.99 695.99
USD #24,555 24,595 25,015
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 29/03/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 01:02