Lại bàn về mấy tiếng Vu lan bồn

15:41 | 15/11/2013

|
Bạn đọc: Tạp chí Suối Nguồn (của Trung tâm Dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang) số 11 (7/2013) đã đăng bài “Lan man ngày lễ Vu Lan” của tác giả Thích Nguyên Hiền trong đó có đoạn: “Từ nhỏ nghe thầy giảng Vu lan bồn là cứu đảo huyền, giải đảo huyền, nghĩa là cứu cái tội treo ngược, giải thoát cái khổ của những người bị treo ngược dưới cảnh giới u minh. Thì cứ hiểu như vậy, thực chất là đúng, là chính xác. Thế rồi đầu thập niên 90, một khảo cứu của học giả An Chi trên Kiến thức Ngày nay truy nguyên tiếng Phạn, cho rằng Vu lan bồn là phiên âm của từ Ullambana, “bồn” cũng là từ phiên âm từ âm tố bana chứ không phải cái chậu”. Trong bài này, tác giả đã dẫn ý kiến của ông Vương Trung Hiếu để phản bác ông An Chi. Xin ông cho biết ý kiến về những nhận xét của tác giả Thích Nguyên Hiền cũng như những nhận xét khác trong bài của ông Vương Trung Hiếu? Xin cảm ơn ông. Thuấn Bụt (Sa Đéc)

Học giả An Chi: Bài của chúng tôi mà tác giả Thích Nguyên Hiền nhắc đến có nhan đề là “Sự tích ngày rằm tháng Bảy và xuất xứ của hai tiếng Vu Lan”, đăng lần đầu tiên cách đây đã hơn 20 năm trên Kiến thức Ngày nay số 89 (1/8/1992). Ngay tại mấy dòng kết luận, chúng tôi đã khẳng định rõ ràng như sau: “Trở lên, dù sao cũng chỉ là ý kiến thô thiển của cá nhân. Nó đúng hay sai thì còn phải chờ ở sự thẩm xét của các nhà chuyên môn, trước hết là các nhà Phật học và các nhà Phạn học”. Thế nhưng trong cái bài hoành tráng của mình nhan đề “Tìm hiểu thuật ngữ Vu Lan bồn”, đưa lên phần “Ngôn ngữ” của vanchuongviet.org ngày 28/2/2012, ông Vương Trung Hiếu đã thách thức một cách rất “hiền lành” mà viết: “Nếu ông An Chi chứng minh được ullambanaullambhana xuất phát từ hai chữ nào trong tiếng Phạn với nghĩa là “sự treo lên, sự giải thoát” và đưa hai chữ đó ra làm bằng chứng thì tôi xin bái phục”. Xin thưa với ông Hiếu là trong bất cứ trường hợp nào, chúng tôi cũng không nuôi cái ảo tưởng được ai bái phục - nhất là khi người bái phục lại là ông Vương Trung Hiếu - nhưng vẫn xin trả lời để ông rõ như sau.

Trước nhất, về nguyên tắc, ông Hiếu đã sai khi nhấn mạnh rằng ullambana là một từ không có thật vì nó không hề xuất hiện trong bất kỳ văn bản tiếng Sanskrit nào, kể cả những từ điển Phạn ngữ. Xin nhớ rằng, đã từng có thời người ta khẳng định là tất cả mọi con thiên nga đều trắng. Rồi cũng đến lúc người ta đành phải ngớ ra mà công nhận rằng, ừ thì cũng có những con màu đen. Việc ông không thấy từ ullambana không có nghĩa là nó không tồn tại. Nhưng để phủ nhận mạnh hơn nữa sự tồn tại của nó, ông Hiếu đã khẳng định rằng “nhiều bài viết, sách báo và từ điển Đông - Tây đã tiếp thu một cách máy móc từ ullambana” chỉ là vì “tiếng Sanskrit là một hệ thống rất phức tạp”, “do thời xưa chưa có hệ thống ký âm, người chuyển tự dựa vào quan điểm cá nhân nên mới dẫn tới tình trạng hiện nay ullambana vẫn là “một bóng ma” trong văn bản tiếng Phạn”. Ông nói cứ như các bậc nghiên cứu tiền bối không ai đọc đúng được chữ Sanskrit… Thì cứ cho nó là một bóng ma. Nhưng nó đang tồn tại. Sự vắng mặt của nó trong từ điển - nếu quả đúng như thế - cũng tuyệt nhiên không có nghĩa là nó không tồn tại. Biết bao nhiêu từ không có mặt trong từ điển mà vẫn tồn tại ở ngoài đời. Nhưng may thay, chính ông Hiếu cũng đã vô tình và gián tiếp góp phần chứng minh cho sự tồn tại của danh từ “ullambana”. Chính ông đã thừa nhận rằng, “lambana là danh từ có trên 10 nghĩa, trong đó có một nghĩa quan trọng liên quan tới khái niệm chúng ta đang bàn, đó là sự treo ngược”. Bên cạnh sự thừa nhận này của ông Hiếu, ta còn có sự ghi nhận tiền động từ “ul’” (< ud) kết hợp với căn tố LAMB thành “ul-lamb” trong từ điển như A Sanskrit English Dictionary của M. Monier - Williams (Reprint: Delhi, 1999) hoặc Dictionnaire sanskrit-franais của N. Stchoupak, L. Nitti, L. Renou (Paris, 1932). Trong rất nhiều trường hợp, những quyển từ điển này chỉ ghi căn tố động từ mà không ghi danh từ phái sinh chỉ hành động. Cho nên ta không thể vì thế mà phủ nhận sự tồn tại của danh từ phái sinh chỉ hành động liên quan đến một số căn tố, trong trường hợp này là “ullambana”.

Với danh từ “ullambhana” cũng vậy. A Sanskrit English Dictionary đã ghi nhận danh từ “lambhana” là “the act of obtaining, recovery” còn Dictionnaire sanskrit-franais cũng ghi nhận “lambhana” và dịch là “fait d’atteindre, de trouver; fait de procurer”. Vậy kết hợp với “ul” (< ud) thành “ullambhana” thì nó sẽ có nghĩa ngược lại, như chúng tôi đã phân tích trên Kiến thức Ngày nay số 89. Không phải hoàn toàn ngẫu nhiên mà danh từ này được sử dụng trong nhiều nguồn thư tịch, trong đó có 7 nguồn mà ông Hiếu đã kể ra tại cước chú (1) trong bài viết của ông.

Trong lập luận của mình, chúng tôi đã phân tích phụ tố “ud” của tiếng Sanskrit. Ông Hiếu đã phản bác:

“Còn nếu phân tích “ud” उद् là tiền tố thì theo Cologne Digital Sanskrit Lexicon, ud không phải là tiền động từ như ông An Chi đã khẳng định. Ud là tiểu từ (particle), làm tiền tố (prefix) cho động từ và danh từ. Nếu xét về động từ thì ud chính là giới từ (उपसर्ग, preposition) mang nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo trường hợp nó kết hợp với động từ nào. Ud có thể mang nghĩa là “trên, phía trên, ngoài, ra khỏi, không có” hoặc “lên, hướng lên, rời, khắp” hay “xa, xa cách, biến đi, biến mất…”.

Ông Hiếu khẳng định như trên là vì ông theo Cologne Digital Sanskrit Lexicon còn chúng tôi thì theo những nguồn khác. Về cái tiểu từ “ud”  mà ông gọi là “prefix” (tiền tố) đó thì Grammaire du sanskrit của Jean Varenne (Presses Universitaires de France, Paris, 1971) giảng rõ tại §56, tr.43 như sau:

“À l’autre extrémité du mot, c’est-à-dire, en fait, juste avant la racine, le sanskrit utilise les préfixes, souvent appelés pré verbes par référence à la valeur constamment verbale de la racine”. (Ở đầu kia của từ, nghĩa là, thực ra, ngay trước căn tố, tiếng Sanskrit dùng các tiền tố, thường gọi là tiền động từ (Chúng tôi nhấn mạnh - AC) do quy chiếu về giá trị động từ thường xuyên của căn tố).

Varenne đã viết như thế. Vậy chúng tôi gọi “ud” bằng tên thường gọi của nó, nếu không hợp lý hơn thì thôi, chứ sai ở chỗ nào?

Ông Hiếu lại đưa chuyện “chậu và bát” ra để phản bác chúng tôi nhưng ở đây ông đã đi lạc đề. Chúng tôi thì nói đến “chậu” trong tiếng Việt còn ông thì lại nói đến cái chậu “bồn” ở bên Tàu. Chúng tôi viết: “Đựng thức ăn trong loại đồ dùng đó (tức cái chậu) mà dâng lên cho chư tăng thọ thực là một hành động hoàn toàn thất nghi và thất lễ”. Đây là chúng tôi phê bình cách dịch của hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi vì hai ông đã viết: “Bồn là cái chậu đựng thức ăn. Cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày Rằm tháng 7 để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết không còn phải đọa cảnh khổ nữa”. Chính ông Hiếu cũng đã nêu cho chữ “bồn” của Tàu hai nghĩa sau đây:

“1. Chậu (đáy nhỏ, miệng to, khá sâu, làm bằng sành, gỗ, kim loại...).

 2. Vật dụng dùng để đựng giống như cái chậu”.

Lẽ ra hai ông Thích Minh Châu và Minh Chi nên dịch chữ “bồn” theo nghĩa 2 - lựa từ nào thì tùy các ông - chứ không thể dịch thành “chậu” được. Chúng tôi chỉ bác cách dịch chữ “bồn” sang tiếng Việt của hai vị này chứ đâu có đề cập gì đến nghĩa 1 hay nghĩa 2 của nó trong tiếng Tàu. Xin nhắc lại lời của Cao Xuân Hạo nói rằng, “dịch sát từng chữ là cách tốt nhất để dịch sai và dịch dở”.

Để tiếp tục phản bác chúng tôi, ông Hiếu còn viết:

Theo chúng tôi (ông Hiếu - AC), từ có khả năng nhất để phiên âm thành Ô lam bà nã 乌 蓝 婆 拿 và Ô lam bà noa 烏藍•?k拏 [chính là avalambana (अवलम्बन)], một danh từ có nghĩa là “sự treo ngược” và cũng có bốn hình vị (ava-lam-ba-na) tương ứng với bốn chữ Ô lam bà nã hay Ô lam bà noa. Trong The Concise Oxford Dictionary of World Religions (1997) của John Bowker và những từ điển tiếng Phạn mà chúng tôi tham khảo đều ghi nhận avalambana có nghĩa là sự treo ngược”.

Ông Hiếu bàn chuyện liên quan đến ngữ học nhưng ngay đến một khái niệm ngữ học cơ bản là “hình vị” ông cũng không nắm vững: Ông đã nhầm lẫn về cả số lượng hình vị lẫn ranh giới của hình vị. Từ “avalambana” chỉ có 3 hình vị mà thôi và đó là “ava”, “lamb” và “ana”.

Thực ra thì, về danh từ “avalambana” này, trước ông Hiếu đến 6 năm, trên tập san Pháp Luân số 29, tháng 7 năm Bính Tuất (2006), trong một bài rất có giá trị nhan đề “Tìm hiểu thuật ngữ Vu Lan Bồn” (tr.40-47), tác giả Thích Đồng Thành đã có nói đến và còn nói kỹ hơn nhiều. Tác giả này viết:

“Khuynh hướng giải thích thứ hai cho rằng Vu Lan Bồn là phiên âm của chữ avalambana. Theo học giả St. Julien, trong Phạn ngữ, quá khứ phân từ của hình thái ud-lamb là ullambita cùng mang nghĩa tương đương với từ avalambana là bị treo lơ lửng. Bàn về từ avalambana, giáo sư Caland đã trích dẫn một đoạn trong bộ sử thi nổi tiếng của Ấn Độ là Mahâbhârata như sau: Sau khi phạm giới tà dâm, Jaratkâru chợt thấy “những người cha” đang bị treo trên một cái hố, đầu trút xuống và sắp bị rơi xuống hố vì một con chuột đang gặm những sợi cỏ còn lại đang buộc quanh chân họ. Lúc đó Jaratkâru liền hỏi: “Các ông là ai, ai đang bị treo (avalambana) vậy?”. Visser, tác giả của bộ Ancient Buddhism in Japan cho rằng có lẽ dịch giả của bản kinh Vu Lan Bồn đã dựa trên đoạn văn này và nghĩa mơ hồ của thuật từ “đảo huyền” (treo ngược) mà Mạnh Tử thường dùng rồi suy diễn rằng đây là một trường hợp đặc biệt chỉ cho trạng thái đau khổ của những người quá cố để từ đó dịch thuật ngữ Vu Lan Bồn là “treo ngược”. Visser còn cho biết thêm rằng theo sự tìm hiểu của Tiến sĩ Rahder trong sáu đoạn của Ngạ Quỷ Sự (Peta-vatthu) và trong bản luận giải của ngài Pháp Hộ về tác phẩm này có nhiều từ được phát sinh từ gốc olamb và những từ này đều có nghĩa là treo. Visser cũng nêu lên ý kiến của Giáo sư Przyluski là thuật ngữ Ô Lam Bà Nã trong Hoa ngữ vốn là phiên âm của từ olambana trong Pâli và avalam-bana trong Phạn ngữ”.

Ông Thích Đồng Thành đã tường thuật như trên nhưng dù cho sự tìm tòi của các vị kia có mang tính bác học đến đâu thì cái tên “avalambana” cũng hoàn toàn thoát ly nội dung của câu chuyện Mục Liên cứu mẹ theo đó bà mẹ chỉ gặp phải cảnh ngộ cơm chưa đến miệng thì đã biến thành than, thành lửa chứ không hề bị treo ngược. Lấy “sự treo ngược” để đặt tên cho tích “cơm biến thành lửa” là cả một sự vô duyên. Tên đâu có khớp với tích! Vì vậy nên chúng tôi vẫn duy trì danh từ ULLAMBHANA.

A.C