Kinh tế Nga gồng mình trong khủng hoảng kép

05:47 | 05/05/2020

317 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nga đang chịu cú sốc chưa từng có, khi giá dầu ở mức thấp kỷ lục và đại dịch khiến doanh nghiệp nhỏ nguy cơ vỡ nợ hàng loạt.

Tháng 3 hàng năm là thời điểm quan trọng với Alexandra Gerasimova - giám đốc chuỗi phòng gym Fitmost (Nga). Mọi người thường muốn đi tập lại sau mùa đông, và doanh thu từ tháng này đủ bù đắp phần lỗ trong suốt mùa xuân và hè.

Tuy nhiên, giữa tháng 3 năm nay, sau nhiều tuần kinh doanh chậm chạp, công ty của cô buộc phải đóng cửa do hàng triệu người Nga phải ở trong nhà vì Covid-19. Khi doanh thu giảm tới 90%, Gerisamova cho biết mục tiêu duy nhất của cô lúc này chỉ là tồn tại. Để không phải sa thải nhân viên, cô quyết định giảm lương tất cả.

Không như Mỹ và các nước châu Âu, Nga đến nay hỗ trợ rất ít cho các doanh nghiệp phải đóng cửa. Fitmost thậm chí còn nằm trong nhóm không đủ điều kiện nhận cứu trợ của chính phủ. Gerisamova không biết phải làm gì để tiếp tục. "Nếu không có gì thay đổi trong 3 tháng tới, tôi không biết công ty sẽ ra sao nữa", cô cho biết trên Time.

Kinh tế Nga đang chịu khủng hoảng kép khi đất nước phải phong tỏa vì đại dịch và giá dầu thô lại lao dốc. "Đây là cú sốc chưa từng có", nhà kinh tế học Sergei Guriev tại Viện Chính trị học Paris nhận xét trên Washington Post, "Giá dầu vốn đã xuống mức thấp chưa từng thấy. Rồi lại đến đại dịch, sau đó là khủng hoảng kinh tế trong nước".

Kinh tế Nga gồng mình trong khủng hoảng kép
Quảng trường Cung điện ở St. Petersburg (Nga) giữa tháng 4. Ảnh: NYT

Giá dầu thô và khí đốt lao dốc đã đe dọa mức sống của người Nga, do ngành năng lượng đóng góp tới hai phần ba xuất khẩu của nước này. Năm 2019, 39% ngân sách Nga cũng đến từ thuế bán dầu khí. Nguồn thu này đã giảm đáng kể năm nay do giá dầu đi xuống. Bộ Tài chính Nga cho biết sẽ sử dụng 27 tỷ USD từ quỹ dự phòng để bù đắp phần thiếu hụt.

Năm nay, Ngân hàng trung ương Nga dự báo giá dầu trung bình là 27 USD một thùng. Trong khi đó, mức họ cần để cân bằng ngân sách là 42 USD và có thể đến năm 2022 mới đạt con số này. Thâm hụt ngân sách năm nay có thể tương đương 6% GDP.

Dù tốc độ lây lan và ảnh hưởng của đại dịch tại Nga hiện vẫn kém xa so với các nước phương Tây, tác động kinh tế của nó đang ngày càng lớn. Ngày 24/4, Ngân hàng trung ương Nga hạ lãi suất tham chiếu thêm 0,5%, xuống 5,5% và ra tín hiệu có thể giảm thêm. Họ dự báo GDP Nga giảm 4-6% năm nay do nhu cầu nguyên liệu thô đi xuống và các biện pháp phong tỏa bóp nghẹt việc kinh doanh trong nước.

Financial Times cho biết việc cắt giảm lần này mạnh tay hơn dự kiến và đã được dự báo từ lâu. Tổng thống Nga Vladimir Putin cũng nhận định khủng hoảng do đại dịch gây ra lần này "tệ hơn tình trạng năm 2008 - 2009".

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) trước đó ước tính GDP Nga có thể giảm 5,5% năm nay. Còn các chuyên gia khác cho rằng Nga sắp có cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong vài chục năm qua, với tỷ lệ thất nghiệp lên tới 15% và khoảng 8 triệu người mất việc. Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) tại nước này đang cầu cứu chính phủ và cảnh báo vỡ nợ hàng loạt do không thể hoạt động.

Danil Makhnitsky - cựu nhân viên Bộ Tài chính Nga đã tạo ra một bản đồ tương tác với hơn 2.000 SME có nguy cơ vỡ nợ. Ông cũng tạo một đơn kiến nghị online để kêu gọi gỡ bỏ thuế cho các SME Nga. "Các doanh nghiệp lớn được chính phủ hỗ trợ thực sự và có khả năng vận động hành lang nữa. Nhưng công ty nhỏ thì không được thế", ông cho biết trên Washington Post.

Kinh tế Nga gồng mình trong khủng hoảng kép
Một khu chợ vắng vẻ tại St. Petersburg (Nga). Ảnh: NYT

Tuy vậy, Nga vẫn lưỡng lự trong việc tung thêm hỗ trợ tài khóa. Đến nay, chính phủ Nga đã đưa ra một số biện pháp củng cố nền kinh tế, nhưng quy mô khá nhỏ so với các nước phương Tây khác, nghiêng về doanh nghiệp lớn nhiều hơn và tập trung vào miễn giảm thuế, bảo lãnh cho vay thay vì hỗ trợ trực tiếp. Riêng khoản cam kết hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ chỉ là 10 tỷ USD.

Ông Putin ngày 15/4 công bố kế hoạch kích thích cho các doanh nghiệp nhỏ, trong đó có cho vay lãi suất 0%, miễn giảm thuế và thanh toán khoảng 160 USD cho mỗi người lao động trong tháng 4 và 5. Tuy nhiên, Alexei Kudrin - Giám đốc Cơ quan Kiểm toán liên bang Nga nhận xét chừng đó gần như không đủ để cứu nền kinh tế. Trên RBC, ông cho rằng chính phủ cần một gói kích thích có quy mô tương đương 7% GDP, tức là gấp 4 lần gói hiện tại.

Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đến nay vẫn chưa thể tiếp cận gói giải cứu. Fitmost - công ty của Gerasimova bị loại ngay từ vòng đầu, do họ là công ty công nghệ và không thuộc nhóm 12 lĩnh vực được giải cứu. "Chúng tôi là một trong những công ty hoàn toàn cô đơn trong cuộc chiến này", cô nói.

Bên cạnh đó, hầu hết đơn đăng ký vay tiền của doanh nghiệp cũng bị từ chối. Trong một cuộc họp báo đầu tháng trước, Thống đốc Ngân hàng trung ương Nga Elvira Nabiullina cho biết ít nhất 900 công ty đã nộp đơn xin vay tổng cộng 81 triệu USD (6 tỷ rouble). Tuy nhiên, chỉ khoảng 1,2% số tiền này được chấp thuận.

Khoản hỗ trợ 160 USD cũng chỉ áp dụng cho các công ty duy trì được ít nhất 90% nhân viên, tính đến ngày 1/4. Bên cạnh đó, các chủ lao động cho biết 160 USD cũng không đủ bù lại thiệt hại phát sinh, chỉ tương đương một phần ba lương tháng trung bình của nhân viên và kéo dài trong 2 tháng.

New York Times cho rằng đại dịch đang đe dọa kéo tụt hàng thập kỷ nỗ lực đa dạng hóa nền kinh tế của Nga. Nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ biến mất, cuộc khủng hoảng y tế sẽ khiến kinh tế Nga phải phụ thuộc nhiều hơn vào chính phủ.

So với các công ty quốc doanh lớn như Gazprom và Rosneft, những doanh nghiệp này chỉ đóng góp phần nhỏ vào GDP Nga. Tuy nhiên, họ là thành phần năng động của nền kinh tế, tạo việc làm cho hơn 18 triệu người - tương đương một phần tư lực lượng lao động, và tiên phong trong nhiều lĩnh vực mới ngoài dầu khí.

Giới chuyên gia nhận định vì nguồn thu lớn đến từ xuất khẩu dầu mỏ và đang phải dùng dự trữ để bù thâm hụt ngân sách, Kremlin có ít động lực để giải cứu các doanh nghiệp nhỏ. "Ưu tiên hàng đầu của họ hiện tại là tiết kiệm tiền và chi ít nhất có thể mà không tạo ra bất ổn chính trị - xã hội lớn", Vladimir Tikhomirov - nhà kinh tế học tại BCS Global Markets nhận xét, "Việc một quán cà phê hay nhà hàng nhỏ không trụ được qua khủng hoảng sẽ không được coi là thảm họa".

Khi đại dịch bắt đầu lây lan mạnh tại các thành phố ở Nga cuối tháng 3, Tổng thống Putin yêu cầu các doanh nghiệp đóng cửa và tiếp tục trả lương cho nhân viên. Rất nhiều doanh nhân như Aleksandr B. Zatulivetrov - chủ một nhà hàng ở St. Petersburg không biết lấy đâu ra tiền và phải tìm mọi cách để trả lương theo quy định. "Tôi đã trả mọi thứ mình có cho nhân viên", ông nói.

Trong khi đó, nhiều doanh nhân lại khẳng định họ không cần hỗ trợ từ chính phủ và muốn được tự túc. "Tôi đã tự đạt được mọi thứ và cũng không kỳ vọng vào sự giúp đỡ nào cả", Denis S. Shevchenko - giám đốc hãng thời trang Gate 31 nói, "Chỉ cần cho tôi biết luật và để tôi mở cửa trở lại thôi. Mỗi ca một khách cũng được".

Theo VNE

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,100 ▼350K 74,050 ▼350K
Nguyên liệu 999 - HN 73,000 ▼350K 73,950 ▼350K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
Cập nhật: 25/04/2024 12:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 81.700 ▼800K 84.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 12:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,275 ▼45K 7,490 ▼35K
Trang sức 99.9 7,265 ▼45K 7,480 ▼35K
NL 99.99 7,270 ▼45K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,250 ▼45K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,340 ▼45K 7,520 ▼35K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,340 ▼45K 7,520 ▼35K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,340 ▼45K 7,520 ▼35K
Miếng SJC Thái Bình 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Miếng SJC Nghệ An 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Miếng SJC Hà Nội 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Cập nhật: 25/04/2024 12:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,700 ▼800K 84,000 ▼500K
SJC 5c 81,700 ▼800K 84,020 ▼500K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,700 ▼800K 84,030 ▼500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,000 ▼100K 74,700 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,000 ▼100K 74,800 ▼200K
Nữ Trang 99.99% 72,800 ▼100K 73,900 ▼200K
Nữ Trang 99% 71,168 ▼198K 73,168 ▼198K
Nữ Trang 68% 47,907 ▼136K 50,407 ▼136K
Nữ Trang 41.7% 28,469 ▼84K 30,969 ▼84K
Cập nhật: 25/04/2024 12:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,095.55 16,258.14 16,779.72
CAD 18,066.09 18,248.58 18,834.02
CHF 27,070.48 27,343.92 28,221.15
CNY 3,431.82 3,466.48 3,578.23
DKK - 3,577.53 3,714.53
EUR 26,481.22 26,748.71 27,933.23
GBP 30,827.96 31,139.35 32,138.35
HKD 3,160.58 3,192.50 3,294.92
INR - 303.87 316.02
JPY 158.45 160.06 167.71
KRW 15.94 17.71 19.32
KWD - 82,205.72 85,492.23
MYR - 5,253.88 5,368.47
NOK - 2,265.78 2,361.97
RUB - 261.72 289.72
SAR - 6,750.57 7,020.45
SEK - 2,288.25 2,385.40
SGD 18,184.25 18,367.93 18,957.20
THB 604.07 671.19 696.90
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 25/04/2024 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,233 16,333 16,783
CAD 18,252 18,352 18,902
CHF 27,247 27,352 28,152
CNY - 3,456 3,566
DKK - 3,587 3,717
EUR #26,664 26,699 27,959
GBP 31,192 31,242 32,202
HKD 3,161 3,176 3,311
JPY 159.46 159.46 167.41
KRW 16.6 17.4 20.2
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,267 2,347
NZD 14,803 14,853 15,370
SEK - 2,280 2,390
SGD 18,165 18,265 18,995
THB 628.99 673.33 696.99
USD #25,123 25,123 25,433
Cập nhật: 25/04/2024 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,175.00 25,177.00 25,477.00
EUR 26,671.00 26,778.00 27,961.00
GBP 31,007.00 31,194.00 32,152.00
HKD 3,181.00 3,194.00 3,297.00
CHF 27,267.00 27,377.00 28,214.00
JPY 159.70 160.34 167.58
AUD 16,215.00 16,280.00 16,773.00
SGD 18,322.00 18,396.00 18,933.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,215.00 18,288.00 18,819.00
NZD 14,847.00 15,342.00
KRW 17.67 19.30
Cập nhật: 25/04/2024 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25125 25125 25477
AUD 16271 16321 16824
CAD 18292 18342 18798
CHF 27437 27487 28049
CNY 0 3458.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26860 26910 27621
GBP 31315 31365 32018
HKD 0 3140 0
JPY 160.88 161.38 165.89
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14841 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18404 18454 19016
THB 0 641.5 0
TWD 0 779 0
XAU 8180000 8180000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 12:45