Khủng hoảng kinh tế vì Covid-19 không tệ bằng Đại suy thoái

08:32 | 11/05/2020

257 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Cuộc khủng hoảng kinh tế do Covid-19 dù có quy mô tương đương với Đại suy thoái 1930 nhưng có thể ít gây hậu quả lâu dài hơn.

Các nhà kinh tế cho rằng có sự khác biệt lớn giữa cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay với các giai đoạn suy thoái năm 1930 và khủng hoảng 2009. Cựu chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Ben Bernanke cho rằng nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng cũng rất khác nhau và dự đoán thời gian suy thoái lần này sẽ ngắn hơn nhiều.

"Sự sụp đổ của hệ thống tài chính là nguyên nhân chính của Đại suy thoái và khủng hoảng giai đoạn 2007-2009", ông Bernanke nói. Tuy nhiên, hiện giờ thì "các ngân hàng mạnh hơn và có vốn hóa tốt hơn nhiều". Theo hầu hết ước tính, suy thoái hiện tại có thể tương đương về quy mô và thời gian với cuộc khủng hoảng năm 2000 và cuộc suy thoái lớn sau Thế chiến II, vào đầu những năm 1980.

khung hoang kinh te vi covid 19 khong te bang dai suy thoai
Dân chúng tập trung tại Sở giao dịch chứng khoán New York vào "Thứ Năm Đen", ngày 24/10/1929. Ngày sau đó, hàng ngàn nhà đầu tư đã mất tiền trong vụ sụp đổ thị trường chứng khoán tồi tệ nhất trong lịch sử Phố Wall. Ảnh: AP.

Còn việc so sánh với Đại suy thoái 1930 cũng rất khó khăn vì hầu hết bộ dữ liệu được thu thập ngày này không tồn tại vào những năm 1930 để có đối chiếu. Nhưng có vài thông tin sơ bộ, như chỉ số thương mại toàn cầu của Hội Quốc liên (League of Nations), dữ liệu của Fed về các nhà máy và hồ sơ của Cơ quan Quản lý Tiến độ công việc (Works Progress Administration – WPA) về tình trạng thất nghiệp.

Trong những năm 1930, sản xuất công nghiệp đã giảm hơn một nửa và ảm đạm nhất vào giai đoạn 1937-1938. Trong khi đó, sản xuất giảm khoảng 15% trong giai đoạn 2007-2009 và 10% vào đầu những năm 1980.

Khi Covid-19 tấn công, sản xuất công nghiệp tại Mỹ đã giảm từ trước do các cuộc chiến thương mại. Trong khi nhiều nhà máy đóng cửa bởi nhu cầu thu hẹp, thì một số nhanh chóng chuyển công năng. Chẳng hạn, General Motors và Ford đã chuyển từ chế tạo ôtô sang máy thở. Các nhà máy cung ứng vật tư y tế thì đang vật lộn để theo kịp nhu cầu.

Từ năm 1929 đến 1933, nền kinh tế suy giảm trong 43 tháng liên tiếp. Thất nghiệp đã tăng lên gần 25% trước khi từ từ giảm xuống, nhưng tỷ lệ này vẫn ở mức trên 10% trong cả một thập kỷ. Trong khi đó, cuộc suy thoái đầu những năm 1980 khiến kinh tế suy giảm 16 tháng, khủng hoảng 2007-2009 là 18 tháng. Còn với lần này, nhiều nhà kinh tế tin rằng kinh tế có thể phục hổi ngay trong năm nay hoặc đầu năm tới nếu virus được kiểm soát.

Tháng 4/2020, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ đạt 14,7% và có khả năng tăng cao hơn nữa. Tuy nhiên, người thất nghiệp ngày nay được an toàn hơn bởi mạng lưới an sinh như bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp.

"Nhiều người đang đau khổ và nền kinh tế sẽ không hồi phục ngay chỉ sau một hoặc hai quý", ông Bernanke nói. "Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể kiểm soát virus một cách hợp lý, nền kinh tế sẽ phục hồi đáng kể và sự suy thoái này sẽ ngắn hơn nhiều so với cuộc Đại suy thoái", ông nhận định.

Quý II/2020 có thể sẽ là quý tồi tệ nhất đối với nhiều nền kinh tế. Ước tính trung bình của các nhà kinh tế được khảo sát bởi Wall Street Journal thì suy giảm kinh tế trong quý này của Mỹ có thể là 25%. Thậm chí một số ước tính gần 50%.

"Nền kinh tế giảm đột ngột, rất mạnh và ngay lập tức, do chính sách đóng cửa của nền kinh tế của các chính phủ. Và bởi nó rất đột ngột nên tạo ra những con số rất cao", ông Douglas Irwin, giáo sư tại Đại học Dartmouth, người đã nghiên cứu chính sách thương mại của Mỹ trong thời kỳ Đại suy thoái. Ngược lại, ông nói, cách mà thế giới phát triển thành Đại suy thoái là một sự suy giảm chậm và ổn định. "Đó là một sự bóp nghẹt chậm nền kinh tế", ông phân tích.

Tương tự Đại suy thoái, sự sụp đổ kinh tế ngày nay mang tính toàn cầu nhưng có quy mô nhỏ hơn, theo nhận định của ông Gita Gopinath, nhà kinh tế trưởng của IMF. Tổ chức này ước tính nền kinh tế thế giới đã giảm khoảng 10% trong cuộc Đại suy thoái, so với dự báo khoảng 3% trong năm nay và dự kiến tăng trưởng trở lại trong năm tới. Tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển đã giảm khoảng 16% trong Đại suy thoái, còn cuộc khủng hoảng hiện tại được dự báo khoảng 6% năm nay.

Một loạt các sai lầm lớn về chính sách trên khắp thế giới đã làm trầm trọng thêm thời gian và mức độ nghiêm trọng của cuộc Đại suy thoái. Ví dụ, các ngân hàng trung ương thắt chặt chính sách tiền tệ để duy trì tiêu chuẩn vàng, điều mà ngày nay không còn tồn tại. Kết quả là giảm phát nghiêm trọng, giá trị của nợ tăng lên còn thu nhập thì giảm.

Thời đó, các chính phủ ban đầu cũng cắt giảm chi tiêu để đối phó với doanh thu giảm. Và khi các nền kinh tế xấu đi, các quốc gia nâng cao các rào cản thương mại để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước của họ. Tuy nhiên, kết quả là nhu cầu toàn cầu co lại, làm cho tình hình tồi tệ thêm.

Lần này, các ngân hàng trung ương trên thế giới đã nhanh chóng cắt giảm lãi suất và triển khai các chương trình để thúc đẩy thị trường tín dụng. Các chính phủ đã phê duyệt nhiều gói chi tiêu lớn, bao gồm khoản kích thích trị giá 2.000 tỷ USD của Mỹ, để giúp các doanh nghiệp hoạt động và bảo vệ công ăn việc làm. Và các nước cũng không cố nâng rào cản thương mại để đối phó với đại dịch.

"Tôi không nói là tất cả chính sách đưa ra đều đúng, nhưng chúng tôi hiểu rằng sự chậm trễ sẽ làm kinh tế xấu đi", Catherine Mann, nhà kinh tế trưởng của Citigroup, bình luận.

Theo VNE

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC HCM 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 ▲450K 69,450 ▲550K
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 ▲450K 69,350 ▲550K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Cập nhật: 28/03/2024 19:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
TPHCM - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Hà Nội - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Hà Nội - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Miền Tây - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Miền Tây - SJC 79.000 ▲200K 81.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 ▲300K 69.200 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 ▲220K 52.050 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 ▲170K 40.630 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 ▲130K 28.940 ▲130K
Cập nhật: 28/03/2024 19:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 ▲30K 6,990 ▲30K
Trang sức 99.9 6,825 ▲30K 6,980 ▲30K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NL 99.99 6,830 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Nghệ An 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Hà Nội 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Cập nhật: 28/03/2024 19:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 ▲100K 81,000 ▲100K
SJC 5c 79,000 ▲100K 81,020 ▲100K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 ▲100K 81,030 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 ▲250K 69,750 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 ▲250K 69,850 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 68,400 ▲250K 69,250 ▲300K
Nữ Trang 99% 67,064 ▲297K 68,564 ▲297K
Nữ Trang 68% 45,245 ▲204K 47,245 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 27,030 ▲125K 29,030 ▲125K
Cập nhật: 28/03/2024 19:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 28/03/2024 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,793 15,813 16,413
CAD 17,948 17,958 18,658
CHF 26,881 26,901 27,851
CNY - 3,361 3,501
DKK - 3,500 3,670
EUR #25,915 26,125 27,415
GBP 30,754 30,764 31,934
HKD 3,040 3,050 3,245
JPY 159.66 159.81 169.36
KRW 16.17 16.37 20.17
LAK - 0.68 1.38
NOK - 2,211 2,331
NZD 14,541 14,551 15,131
SEK - 2,249 2,384
SGD 17,808 17,818 18,618
THB 627.15 667.15 695.15
USD #24,555 24,595 25,015
Cập nhật: 28/03/2024 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 28/03/2024 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/03/2024 19:45