Khi lãnh đạo nữ quản lý… tiền!

10:26 | 18/11/2020

201 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nữ giới quản tiền là chuyện đương nhiên và phù hợp thiên chức. Song “quản tiền” với trọng trách trên chính trường, trong một hệ thống tài chính quốc gia, hay quốc tế, thì thực tế vẫn chẳng có mấy ai.

Những nữ lãnh đạo quản tiền lẫy lừng trên thế giới

Không nhiều về số lượng và phổ biến như các Lãnh đạo quản tiền là nam, nhưng thế giới vẫn luôn xuất hiện những tiền lệ.

Đáng kể đến đầu tiên là bà Christine Madeleine Odette Lagarde, nữ Bộ trưởng Tài chính Pháp và cũng là nữ Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của quốc gia nhóm G8. Chưa hết, bà còn là nữ Tổng Giám đốc đầu tiên của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), được bổ nhiệm vào năm 2011. Năm 2019, bà từ chức, nhường ghế cho một lãnh đạo nữ khác là bà Kristalina Georgieva từ Bulgari, vào vị trí đứng đầu thể chế tài chính gồm 189 nước thành viên.

Nữ Tổng Giám đốc đầu tiên của Quỹ Tiền tệ quốc tế, bà Christine Lagarde (ảnh: BBC)
Nữ Tổng Giám đốc đầu tiên của Quỹ Tiền tệ quốc tế, bà Christine Lagarde (ảnh: BBC)

Nói đến tài chính, trung tâm thế giới theo cách diễn đạt vắn tắt người phố Wall, phần nào vẫn thuộc về… Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Đây là Ngân hàng trung ương quốc gia Mỹ, hoạt động hoàn toàn độc lập với Nhà Trắng nhưng mỗi quyết sách, lại ảnh hướng rất lớn đến không chỉ nước Mỹ mà có thể toàn thể thị trường tài chính toàn cầu. Lãi suất cơ bản (FED funds rate) mà FED quyết định, xưa nay vẫn là lãi suất tham chiếu quan trọng trên thị trường tài chính thế giới. Có thể ví như FED... ho một cái, thì sẽ có thể nhiều cơ thể thị trường tài chính phải hắt hơi và cả thế giới phải rung chuyển.

Với vị trí quan trọng như vậy, trong lịch sử 107 năm tính đến 2020, mãi đến 2014, dưới thời đại của Tổng thống Mỹ Barak Obama và được ông đề cử, Thượng viện Mỹ lần đầu tiên mới có “tiền lệ” phê chuẩn Chủ tịch FED là nữ, bà Janet Yellen hiện là Phó chủ tịch đương nhiệm FED. Nhiệm kỳ của nữ kinh tế gia tại FED kéo dài 5 năm 2 tháng và bà được đánh giá đã khá thành công trong giai đoạn cần vực dậy kinh tế xứ cờ hoa ở đoạn giữa chu kỳ 10 năm khủng hoảng.

Nữ Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đầu tiên và duy nhất đến nay, bà
Nữ Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đầu tiên và duy nhất đến nay, bà Janet Yellen (ảnh: Reuters)

Nữ Thống đốc Ngân hàng đầu tiên của Việt Nam

Với Việt Nam, ai đảm nhiệm vai trò Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cũng đồng nghĩa nắm giữ vị trí quyền lực ở một tổ chức vô cùng quan trọng. Nói về Lãnh đạo giới nữ, Việt Nam cũng đã có những tiền lệ trên chính trường nói chung khi vào năm 2016, đã có Nữ Chủ tịch Quốc hội đầu tiên – bà Nguyễn Thị Kim Ngân, là Chủ tịch Quốc hội thứ 8 và đương nhiệm. Năm 2020, chúng ta lại đã có nữ Thống đốc NHNN đầu tiên ở đời nhiệm kỳ thứ 15. Bà Nguyễn Thị Hồng vừa được Quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, nối tiếp người tiền nhiệm là một trong hai Thống đốc trẻ nhất trong lịch sử ngành ngân hàng Việt, ông Lê Minh Hưng.

Bà Nguyễn Thị Hồng, nữ Thống đốc NHNN đầu tiên của Việt Nam
Bà Nguyễn Thị Hồng, nữ Thống đốc NHNN đầu tiên của Việt Nam (ảnh: NHNN)

Trong buổi lễ chuyển giao công việc và được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trao Quyết định của Chủ tịch nước bổ nhiệm Thống đốc NHNN Việt Nam đối với bà Nguyễn Thị Hồng, như thường lệ bà xuất hiện với tà áo dài màu, phong thái nhã nhặn và đầy nữ tính. Với các nhà báo chuyên theo dõi lĩnh vực tài chính ngân hàng, trước khi trở thành nữ Thống đốc, họ cũng đã quen thuộc với nữ Phó Thống đốc rất dễn bắt chuyện, ân cần, nhưng rất rành mạch, rõ ràng và dứt khoát khi thông tin về hoạt động tài chính ngân hàng trong quý, trong năm, khi trả lời các câu hỏi họp báo khó khá thẳng thắn mà cũng rất… kín kẽ. Việc bà được Quốc hội phê duyệt quyết định bổ nhiệm cương vị mới, thực tế, với nhiều người, cũng không quá mức bất ngờ bởi nói theo cách của một chuyên gia trong ngành, bà là gương mặt sáng giá của hệ thống hiện nay - xét cả về kinh nghiệm chuyên môn lẫn tuổi đời, tuổi nghề và các vị trí mà bà đã trải qua.

Có một điểm khá thú vị là ngoài các vị trí công việc chuyên môn theo tiểu sử của bà Nguyễn Thị Hồng, vốn đã được công khai chi tiết những ngày qua, thì trong những năm gần đây, thực tế, tân Thống đốc cũng rất dày dạn kinh nghiệm “kiêm nhiệm” nhiều vị trí ngoài chuyên môn ngành, thực thi các nhiệm vụ cần sự phối hợp với nhiều cơ quan liên Bộ và đại diện NHNN.

Điển hình tháng 2/2017, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ - Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế đã ký văn bản số 114/QĐ-BCDDLNKT quyết định danh sách Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế. Trong đó, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng là ủy viên Ban Chỉ đạo liên ngành, cùng phối hợp với rất nhiều thành viên Ban từ các Bộ ngành để nghiên cứu, đề xuất, tham mưu, tư vấn cho Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia các chủ trương, chính sách lớn, chiến lược, kế hoạch, chương trình hành động của Chính phủ về hội nhập kinh tế quốc tế; nghiên cứu, đề xuất, tham mưu cho Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về các chủ trương và định hướng đàm phán hội nhập kinh tế quốc tế chung để làm cơ sở cho việc xây dựng phương án đàm phán của các Bộ, ngành...

Tháng 8/2018, bà Nguyễn Thị Hồng lại có tên trong danh sách thành viên Ban Chỉ đạo điều hành giá được Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ - Trưởng ban Chỉ đạo điều hành giá quyết định, cùng phối hợp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, giúp Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt hoặc quyết định những chủ trương, định hướng lớn về quản lý điều hành giá trong từng thời kỳ; thực hiện đồng bộ các chính sách về giá các hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu; quyết định các biện pháp điều hành giá cụ thể đối với một số hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu phù hợp trong từng thời kỳ; thực hiện các biện pháp bình ổn giá đối với các hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu; cùng các nhiệm vụ khác.

Kinh nghiệm làm việc với các cơ quan liên bộ theo đó, chắc chắn sẽ là một trong những thế mạnh của nữ Thống đốc trong quá trình phối hợp cùng Bộ ngành và các cơ quan TW, địa phương, để triển khai các nhiệm vụ theo trọng trách vừa được giao. Hy vọng, đó cũng là một trong những “lợi thế” chính trị quan trọng, đi cùng tính nữ uyển chuyển, mềm mại, khéo léo vốn có của một Lãnh đạo nữ, để giúp bà vượt qua các thách thức, áp lực rất lớn của bối cảnh tài chính hiện nay. Song song với đó còn có bối cảnh hội nhập tài chính toàn cầu và sự bất định, thay đổi, lên ngôi của các đồng tiền, các quyền lực mới.

Người xưa thường dạy: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ”. Hiện đại hơn, dân gian lại có câu nói: “Đàn ông kiếm tiền, đàn bà giữ tiền”. Cả hai câu nói này đều nhấn mạnh yếu tố quan trọng, phù hợp thiên chức của giới nữ trong “quản tiền”. Nhưng đó hẳn là “quản tiền” ở phạm vi “tề gia”. Còn trong thời mà vai trò của giới nữ ngày càng được coi trọng hơn, bất bình đẳng giới trên nhiều phương diện đã bị xóa nhòa, những tiền lệ nữ Lãnh đạo đứng đầu các hệ thống tài chính đã khẳng định rằng dù chỉ là tiền lệ, bình đẳng giới vẫn đã cất tiếng nói thành công, thì việc “quản tiền” này còn bao gồm ý nghĩa, vai trò góp sức “trị quốc”. Thách thức của nữ Thống đốc Nguyễn Thị Hồng vẫn còn rất lớn, thậm chí, nặng nề, ở phía trước.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Chuỗi hoạt động đặc sắc tại “Ký ức Thăng Long”Chuỗi hoạt động đặc sắc tại “Ký ức Thăng Long”
Đưa công nghệ số vào mọi mặt của quản lý nhà nướcĐưa công nghệ số vào mọi mặt của quản lý nhà nước
Quy định mới về quản lý thuế đối với DN có giao dịch liên kếtQuy định mới về quản lý thuế đối với DN có giao dịch liên kết

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Cập nhật: 20/04/2024 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 17:00