Điều hành thị trường xăng dầu: Cần có chiến lược phát triển bền vững, lâu dài

11:30 | 09/06/2012

671 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đó là lời khẳng định của ông Vũ Vinh Phú Chủ tịch Hội Siêu thị TP Hà Nội trước những băn khoăn của dư luận xã hội trong việc điều chỉnh giá xăng dầu thời gian gần đây.

Ông cho rằng: Thị trường xăng dầu trong nước đang phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung xăng dầu thế giới nên chuyện biến động tăng – giảm giá là hoàn toàn bình thường. Muốn ổn định thị trường xăng dầu trong nước, chúng ta cần phải xây dựng một chiến lược ổn định, lâu dài đối với mặt hàng xăng dầu, trong đó, tập trung xây dựng, phát triển các nhà máy lọc dầu trong nước chính là giải pháp của mọi giải pháp.

Khúc mắc cần tháo gỡ

Có một thực tế, cứ mỗi đợt xăng dầu tăng giá thì gần như ngay lập tức hiệu ứng “tát nước theo mưa” của một loạt mặt hàng lại xảy ra. Và điều này đã được nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá là không có gì lạ bởi mặt hàng xăng dầu là nguyên liệu sản xuất đầu vào của hầu hết các lĩnh vực sản xuất. Việc tăng giá xăng dầu đồng nghĩa với việc chi phí đầu vào tăng và tất nhiên, khoản chi phí tăng thêm đó sẽ được tính vào giá thành sản phẩm. Cũng chính vì vậy, sau mỗi quyết định điều chỉnh giá xăng dầu của Bộ Tài chính là một lần dư luận đặt câu hỏi: Quyết định này đã tính toán đến quyền lợi của người dân hay chưa? Có đúng, có hợp lý hay không? Tại sao doanh nghiệp (DN) cứ kêu lỗ vì giá xăng dầu thế giới tăng thì lại tăng giá còn khi giá xăng dầu thế giới giảm thì lại không nhắc tới chuyện giảm giá?… Và đây cũng chính là những vấn đề khúc mắc đang tồn tại trên thị trường xăng dầu Việt Nam.

Xung quanh vấn đề này, ông Nguyễn Tiến Thỏa – Cục trưởng Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính nhấn mạnh: Trước khi đưa ra các quyết định điều chỉnh giá xăng dầu, Nhà nước luôn tính toán dựa trên lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế, trong đó có quyền lợi của người tiêu dùng. Việc lùi thuế nhập khẩu xăng dầu về 0% như ngày 24/2/2012 chính là nhằm mục đích không để giá tăng cao quá, giảm bớt được khó khăn cho người tiêu dùng.

“Nếu nói Nhà nước không tính đến hay xem nhẹ lợi ích của người dân là hoàn toàn không đúng, vì trong lần điều chỉnh giá xăng dầu ngày 7/3/2012, nếu tính đủ cả mức thuế theo barem của Nhà nước vào trong đợt điều chỉnh vừa qua thì giá bán lẻ xăng dầu sẽ phải tăng khoảng 4.500-6.000 đồng/lít chứ không phải 2.100 đồng/lít”, ông Thỏa nhấn mạnh.

Nhà máy Lọc dầu Dung Quất

Chia sẻ quan điểm với báo chí về việc điều hành giá xăng dầu thời gian vừa qua, ông Bùi Văn Mai – Tổng Thư ký Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cho rằng: Do thời điểm nhập khẩu và lưu thông mặt hàng xăng dầu ra thị trường không giống nhau, DN ký hợp đồng nhập khẩu và vận chuyển về Việt Nam sau 15-20 ngày, sau đó chuyển tiếp đi các nơi để bán. Do vậy, ông rất đồng tình với ý kiến cho rằng, không phải giá xăng dầu thế giới giảm là giá trong nước có thể giảm ngay được.

Nói như vậy để thấy rằng, lợi ích của người tiêu dùng luôn được tính đến trong các quyết định tăng, giảm giá xăng dầu, vậy vấn đề ở đây là gì? Theo nhiều chuyên gia kinh tế thì cơ chế tính giá cơ sở bình quân trong 30 ngày không còn phù hợp mà có thể nới lỏng 7 ngày hoặc 15 ngày để linh hoạt hơn với giá thị trường.

Và để giải quyết khúc mắc này, ông Thỏa cho biết, Bộ Tài chính và Bộ Công Thương đang xem xét sửa đổi Nghị định 84, trong đó sẽ nghiên cứu sửa đổi một số yếu tố như quy định tính giá cơ sở bình quân 30 ngày, mức chi phí kinh doanh, chiết khấu hoa hồng đại lý… Bộ Tài chính thấy cần xem lại cách tính giá bình quân trong 30 ngày hay 20 ngày, 10 ngày; điều chỉnh giá sau bao nhiêu ngày là vừa…

“Về chủ trương thì Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý giao cho Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan khác để sửa đổi bổ sung những điểm chưa phù hợp tại Nghị định 84 về kinh doanh xăng dầu. Hiện nay, để sửa đổi bổ sung, theo Bộ Tài chính, các bộ, ngành và DN kinh doanh xăng dầu phải cùng nhau đánh giá những mặt được và hạn chế của kinh doanh xăng dầu”, ông Thoả cho biết thêm.

Tự chủ nguồn cung: tại sao không?

Nhìn nhận những biến động trên thị trường xăng dầu trong nước những năm gần đây, hầu hết các chuyên gia kinh tế đều có chung nhận định, mặc dù Việt Nam đã xây dựng và đưa Nhà máy Lọc dầu Dung Quất vào hoạt động nhưng mới chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu sử dụng xăng dầu trong nước, còn 70% nhu cầu còn lại hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường xăng dầu thế giới. Vậy nên, để giải quyết tận gốc vấn đề này, giảm thiểu sự phụ thuộc trên, tăng tính tự chủ cũng như dự trữ chiến lược mặt hàng xăng dầu, chúng ta cần có chiến lược xây dựng và phát triển các nhà máy lọc dầu, đặc biệt khi những dự án hợp tác khai thác dầu khí ở nước ngoài của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam sẽ cho sản phẩm trong thời gian tới.

Chia sẻ quan điểm của mình về vấn đề này, ông Vũ Vinh Phú cho rằng: Việc Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đi vào vận hành ổn định chính là minh chứng rõ nét nhất cho việc chúng ta hoàn toàn có thể tiếp cận và bắt nhịp với công nghệ lọc hóa dầu trên thế giới. Nếu chúng ta có thêm 1, 2 hay 3 nhà máy lọc dầu thì chắc chắn nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước sẽ được đảm bảo.

“Hiện chúng ta vẫn đang là nước xuất khẩu dầu thô nhưng lại phải nhập khẩu tới 70% lượng xăng dầu tiêu thụ trong nước, vậy tại sao chúng ta không thể tự chủ nguồn cung xăng dầu bằng việc phát triển các nhà máy lọc dầu? Nếu làm được như vậy thì chắc chắn những tác động xấu từ việc biến động giá cả xăng dầu thế giới với thị trường trong nước sẽ được giảm thiểu. Và nếu chấm dứt được tình trạng “xuất thô, nhập tinh” với mặt hàng này sẽ mang lại một nguồn ngoại tệ lớn cho nền kinh tế”, ông Phú nhấn mạnh.

Được biết, từ năm 2010 đến nay, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã tổ chức thành công các chương trình xúc tiến đầu tư tại Nhật Bản (6/2010); tại Hàn Quốc (11/2010); tại Hoa Kỳ (6/2011);… hay ngày 14/4/2011, Công ty Dầu Quốc gia Venezuela và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã ký thỏa thuận mở rộng nghiên cứu vùng lòng hồ Maracaibo, thỏa thuận các công ty dịch vụ dầu khí Việt Nam tham gia cung cấp dịch vụ kỹ thuật tại lô Junin 2.

Lô Junin 2 là mỏ dầu có trữ lượng lớn tới hơn 31 tỉ thùng dầu nằm cách thủ đô Caracas của Venezuela hơn 800km, có diện tích 247,7km², nằm trên vành đai dầu mỏ khí đốt Oricono. Vành đai này có trữ lượng lớn thứ nhì thế giới, trong đó lô Junin 2 có trữ lượng lớn nhất.

Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Đỗ Văn Hậu cho biết, dự kiến sang năm 2013, mỗi ngày giàn PDV-39 sẽ cho sản lượng 7.000 thùng dầu siêu nặng. Còn toàn lô Junin 2 sẽ cho sản lượng khoảng 200.000 thùng/ngày và phía Tập đoàn Dầu khí Việt Nam được hưởng 40% trong số đó, theo tỉ lệ góp vốn. Việc khai thác dầu tại lô Junin 2 sẽ góp phần đảm bảo được an ninh năng lượng cho Việt Nam ít nhất trong vòng 25 năm nữa.

{lang: 'vi'}

Thanh Ngọc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
AVPL/SJC HCM 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
AVPL/SJC ĐN 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 ▲300K 74,400 ▲300K
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 ▲300K 74,300 ▲300K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.500 ▲1500K 84.500 ▲1200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,320 ▲35K 7,525 ▲25K
Trang sức 99.9 7,310 ▲35K 7,515 ▲25K
NL 99.99 7,315 ▲35K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,295 ▲35K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,385 ▲35K 7,555 ▲25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,385 ▲35K 7,555 ▲25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,385 ▲35K 7,555 ▲25K
Miếng SJC Thái Bình 8,240 ▲140K 8,440 ▲130K
Miếng SJC Nghệ An 8,240 ▲140K 8,440 ▲130K
Miếng SJC Hà Nội 8,240 ▲140K 8,440 ▲130K
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,500 ▲1500K 84,500 ▲1200K
SJC 5c 82,500 ▲1500K 84,520 ▲1200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,500 ▲1500K 84,530 ▲1200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 ▲200K 74,900 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 ▲200K 75,000 ▲200K
Nữ Trang 99.99% 72,900 ▲300K 74,100 ▲200K
Nữ Trang 99% 71,366 ▲198K 73,366 ▲198K
Nữ Trang 68% 48,043 ▲136K 50,543 ▲136K
Nữ Trang 41.7% 28,553 ▲84K 31,053 ▲84K
Cập nhật: 24/04/2024 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,099.42 16,262.04 16,783.75
CAD 18,096.99 18,279.79 18,866.22
CHF 27,081.15 27,354.69 28,232.26
CNY 3,433.36 3,468.04 3,579.84
DKK - 3,572.53 3,709.33
EUR 26,449.58 26,716.75 27,899.85
GBP 30,768.34 31,079.13 32,076.18
HKD 3,160.05 3,191.97 3,294.37
INR - 304.10 316.25
JPY 159.03 160.63 168.31
KRW 16.01 17.78 19.40
KWD - 82,264.83 85,553.65
MYR - 5,261.46 5,376.21
NOK - 2,279.06 2,375.82
RUB - 261.17 289.12
SAR - 6,753.41 7,023.40
SEK - 2,294.19 2,391.60
SGD 18,200.78 18,384.62 18,974.42
THB 606.76 674.18 700.00
USD 25,147.00 25,177.00 25,487.00
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,197 16,217 16,817
CAD 18,225 18,235 18,935
CHF 27,308 27,328 28,278
CNY - 3,437 3,577
DKK - 3,552 3,722
EUR #26,301 26,511 27,801
GBP 31,061 31,071 32,241
HKD 3,115 3,125 3,320
JPY 159.82 159.97 169.52
KRW 16.28 16.48 20.28
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,232 2,352
NZD 14,806 14,816 15,396
SEK - 2,260 2,395
SGD 18,108 18,118 18,918
THB 633.15 673.15 701.15
USD #25,135 25,135 25,487
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,187.00 25,487.00
EUR 26,723.00 26,830.00 28,048.00
GBP 31,041.00 31,228.00 3,224.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,304.00
CHF 27,391.00 27,501.00 28,375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16,226.00 16,291.00 16,803.00
SGD 18,366.00 18,440.00 19,000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18,295.00 18,368.00 18,925.00
NZD 14,879.00 15,393.00
KRW 17.79 19.46
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25195 25195 25487
AUD 16325 16375 16880
CAD 18364 18414 18869
CHF 27519 27569 28131
CNY 0 3469.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26892 26942 27645
GBP 31326 31376 32034
HKD 0 3140 0
JPY 161.93 162.43 166.97
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0346 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14885 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18459 18509 19066
THB 0 646 0
TWD 0 779 0
XAU 8230000 8230000 8400000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 24/04/2024 21:00